Nguyễn Lê Hồng Hưng


Ra đi trong đêm mưa mùa

   

Em vá lưới anh làm ngư phủ
Hai tâm hồn ấp ủ bên nhau

Cơn dông trưa kéo dài tới chạng vạng mới ngưng. Trên mái nhà, những giọt mưa còn đọng cứ lõm bõm rơi xuống nổi bọt trong rãnh nước trước hàng ba. Trên trời mây đen vần vũ, sấm chớp rền trời để chuẩn bị cho đám dông đêm.

Đèn điện đã bật lên hồi nào trong khu phố ngoài thị trấn Sông Đốc vàm nhưng đường phố vẫn vắng tanh. Đâu đó ở đầu xóm ngoài văng vẳng vài tiếng chó sủa ma. Gần bên hè lưa thưa tiếng ếch nhái, bù tọt ọt ẹt nghe thê lương.

Việt ngồi trầm tư bên góc ngoài bộ ván cạnh cửa sổ, đầu ló ra tấm rèm, chăm chú ngó ra đường tối đen như mực. Chốc chốc bầu trời nhá lên một tia sáng chói lòa, tiếp theo là tiếng gầm rung rinh đất. Việt bực bội lầu bầu:

“Cái ông trời kỳ cục, dông hổng dông, gió hổng gió, mưa hổng mưa, mần gì mà ấm ớ như gà mắc đẻ!”

Bà Tư, má Việt ngồi đầu trong bộ ván, cạnh chiếc đèn ống khói để bên rổ may, đang mằn mò vá lại mớ đồ rách, nghe con trách trời, bà tỏ vẻ không hài lòng:

“Việt, má nói với con hoài, chuyện than trời trách đất là chuyện kỵ của dân hạ bạc mình, con ăn nói bậy bạ hổng nên đa con.”

Việt lặng thinh, đầu chỉ nghiêng nhẹ một cái cho biết là nó có nghe, mắt vẫn chăm chú ngó ra ngoài đường, lâu lâu lại liếc nhìn đồng hồ tay.

Những cử chỉ ấy không thể nào qua khỏi cặp mắt của bà Tư. Buông kim xuống, bà hỏi giọng từ tốn:

“Đêm nay má thấy con kỳ lạ quá. Bộ có chuyện gì hệ trọng lắm hả con?”

Nghe hỏi, Việt nhổm người như điện giựt, rồi lấy lại bình tĩnh, nó day vô nhìn bà phân giải:

“Dạ, con  có hẹn với mấy người bạn ở miệt trong U Minh má.”

Bà Tư lo lắng:

“Ban đêm ban hôm mưa dông như vầy làm sao con đi được?”

“Đi hổng được cũng ráng mà đi, vì con trót hứa với người ta rồi má à.”

“Hứa thì hứa, nhưng cũng phải hưỡn lại chớ con, thấy mưa dông như vầy người ta cũng thông cảm chớ có đâu bắt lỗi bắt phải!”

Nói đoạn bà Tư cúi xuống cầm kim lên vá tiếp. Việt vẫn ngồi ngó ra đường.

Việt mồ côi ba từ năm mười hai tuổi, học hết lớp nhứt trường xã, sau đó rời trường đi đánh cá. Tuy làm ngư phủ rất bận rộn nhưng những khi rảnh rỗi là Việt tìm sách để đọc. Việt cũng biết nhậu nhẹt như những thanh niên ngư phủ khác trong vùng, nhưng nhậu đờn ca vui vẻ chớ không có tập bè tập đảng phá xóm phá làng. Đối với bà con lối xóm, Việt rất tử tế nên được nhiều người thương. Với gia đình, Việt là đứa con giỏi giắn khôn ngoan nên bất cứ công chuyện mần ăn nào của Việt, bà Tư không bao giờ có ý kiến.

Những ngày còn nhỏ, Việt cũng như các ngư phủ khác trong vùng, sống hiền lành và trong sạch. Mãi đến năm mười bảy tuổi nó mới nhận đưọc mối tình đầu. Tình yêu đến rất tự nhiên làm nó lâng lâng ngây ngất như lần đầu ra khơi bị say sóng.

Cách đây hơn hai năm, một ngày con nước mãn, ghe thuyền đậu lại, lưới được kéo lên vá để chuẩn bị cho con nước kỳ tới.

Buổi sáng, ngoài các cô vá lưới quen mặt tụ xuống bến đầy đủ, còn có thêm một cô thợ mới. Không biết cô nàng vá lưới có chuyên nghiệp không, nhưng chỉ mới thấy cô là các thanh niên ngư phủ đã vui lòng. Tân, bạn Việt, cái thằng mồm mép quá xá, hỏi tía lia tên họ, tuổi tác, nghề nghiệp... Một lát sau nó tra hết lý lịch cô nàng. Nhờ Tân mà mọi người biết cô ta tên Lan từ Rạch-Giá mới dọn về. Lan mồ côi ba, hiện hai má con sống trong căn nhà lá ngoài đầu khu vực một. Tánh tình Lan điềm đạm ít nói nhưng không nhút nhát. Giờ nghỉ giải lao, ai nói trời trăng mây nước gì thì nói, Lan ngồi nép một bên lôi quyển Trống Mái trong bịch đồ nghề ra, vừa uống cà phê đá vừa ngấu nghiến đọc. Cô nàng đọc tiểu thuyết say mê cũng như say mê vá lưới.

Sự có mặt của Lan làm đám trai tơ bên vàm sông Ông-Đốc rậm rà rậm rật, chớ thiệt ra không có gì lạ đối với bà con chòm xóm ở đây. Vùng ven nầy kẻ đến người đi là lẽ thường tình. Dầu ông nọ, bà kia ở đâu xa xuống đây lập nghiệp, hễ đóng ghe đánh cá thì người ta vẫn coi đó là một ngư phủ không hơn không kém.

Không bao lâu Lan đã trở thành cô thợ vá lưới quen mặt. Nhờ tánh nết đôn hậu, lại có chút nhan sắc dễ thương nên được nhiều người mến, nhứt là những trai ngư phủ trẻ trong vùng. Những ngày mãn con nước, trai trẻ chiều chiều rủ nhau đến nhà Lan tụ tập đờn ca vui vẻ lắm.

Dì Hai, má Lan là người dễ dãi, không cấm Lan giao thiệp với bạn trai, lắm khi bà còn vui vẻ ngồi nghe đờn hát nữa. Việt lúc đầu còn đi với Tân tới chơi nhà Lan, nhưng tánh Việt nhu mì ít nói, còn Tân thì bô lô ba la, nhứt là trước mặt Lan làm nó khó chịu. Sau đó Việt thường tránh những lần tụ tập đông đảo, có tới thăm Lan, Việt chỉ đi mình ên vào những ngày biết Lan rảnh rỗi. Cũng nhờ vậy dì Hai biết Việt nhiều hơn. Còn Lan, nàng cũng có cảm tình với Việt nữa.

Một hôm nhà Lan có giỗ, cô mời tất cả bạn bè tới dự. Hôm đó Tân ăn bận bảnh tỏn lắm, áo trắng vắt khăn thêu lòi trên miệng túi, quần ống loe màu huyết dụ, đầu xức dầu láng coóng, chải tóc bảy ba. Tân làm như người nhà, chạy tới chạy lui lăng xăng lái xái cùng với con Hoa, con Cúc, con Thu, chị Mẫn và mấy bà mấy chị hàng xóm tới phụ nấu nướng đằng sau bếp, vẫn với cái miệng tía lia, lau bàn thờ, chùi bộ ván. Tới giờ cúng, Tân dọn chén đũa lên bàn thờ. Dì Hai và Lan lạy, Tân đứng sau xá xá. Dì kể lể những đức tính hồi ông Hai còn sống rồi bật khóc hu hu, Tân với vẻ mặt buồn buồn tìm lời an ủi.

Sau cái màn cúng kiếng kể lể, thức ăn được dọn ra hai bộ ván nhà trên. Già với sồn sồn ngồi một bên, trẻ ngồi một bên. Mọi người trèo lên ngồi xếp bằng trên hai bộ ván, vừa ăn nhậu vừa nói chuyện.

Bữa đó Tân nhận phần phụ dọn đồ ăn nên không ngồi chung với các bạn. Tân cứ chạy lên chạy xuống, ai kêu gì thì làm nấy. Việt ngồi bên nầy ván ngựa dựa lưng vô vách, ai nói gì thây kệ, có vui tiếp vài nụ cười, không thì thôi. Lan nãy giờ bận rộn dưới bếp, bây giờ mới lên. Bạn bè kêu réo hoài, Lan mới chen lên ngồi cạnh Việt, cầm chén đũa ăn uống tự nhiên.

Bữa ăn sắp tàn, đám thanh niên bắt đầu chuyện trời trăng mây nước, đến khi Lan mở lời thì tất cả đều yên lặng.

Lan day ngang hỏi Việt:

“Anh Việt năm nay bao nhiêu há?”

Nghe Lan hỏi bất ngờ, Việt ú ớ:

“Ơ... hơ... cô hỏi tôi bao nhiêu gì?”

Hai người cười rộ, Lan cũng cười:

“Lan hỏi anh bao nhiêu tuổi.”

“Dà, mười bảy cô.”

Lan cười nhẹ:

“Anh nói chuyện với Lan nên bỏ tiếng dạ đi. Bộ anh muốn Lan chết yểu hả?”

Tân nãy giờ chạy vòng ngoài, có lẽ vì không ai để ý nên ngứa miệng xía vô:

“Thằng Việt gan con thỏ, cô hỏi một hồi nó lủi mất cho coi.”

Việt lặng thinh, ngửa lưng vô vách. Không khí trở lại yên lặng. Dì Hai nãy giờ ngồi bên kia với mấy người lớn, nghe đám trẻ sắp xỏ nhau, mới day qua vui vẻ ôn tồn:

“Nè, tôi nói cho mà nghe, thời buổi nầy kiếm một người hiền từ như cậu Việt khó lắm đa.”

Tân vội vã hớt lời:

“Dì coi nó lù khù như vậy chớ coi chừng nó vác lu hổng hay đó dì.”

Không biết vô tình hay cố ý, dì nói:

“Nếu chọn rể, tui sẽ chọn cậu Việt đây!”

Rồi dì day qua Việt:

“Cậu Việt, cậu chịu ở rể nhà tui hôn?”

Nghe đến đây Lan mắc cở nhảy xuống đất cái đụi đi tuốt vô trong buồng. Việt cúi mặt làm thinh trước tiếng cười của những người trong đám tiệc.

Sau bữa giỗ hôm đó, lúc đầu hai đứa gặp nhau có hơi bẽn lẽn, dần dà rồi quen, lại thân hơn hồi trước nữa.

Một buổi trưa đầu mùa gió bấc, Việt đến nhà Lan. Vừa vô cửa, Việt thấy Lan tay cầm ghim xỏ đều qua mặt lưới, mắt chăm chú ngó xuống quyển tiểu thuyết để trên bắp đùi. Cái mốc căng gõ lốc cốc vô tấm ván vách theo nhịp tay của Lan đan đều qua mặt lưới. Lan ngồi xếp bằng trên bộ ván, vừa đan lưới vừa đọc truyện nên không hay Việt vô. Đến khi nghe Việt tằng hắng, nàng mới ngước lên, giọng mừng vui:

“Anh tới chơi!”

Việt mỉm cười:

“Khắp thị trấn nầy đốt đuốc tìm cũng không ra một người như cô đó.”

“Sao vậy anh?”

“Từ cha sanh mẹ đẻ cho tới nay, đây là lần đầu tui thấy một người vừa đan lưới vừa đọc sách.”

Lan đan qua một hàng nữa cho đủ mặt rồi nàng buông ghim bước xuống đất, lấy quyển truyện để một bên, nói:

“Tại anh chưa thấy đó thôi, chớ ở Rạch-Giá thiếu gì người như vậy.”

Lan mời Việt ngồi xuống ván, rồi nàng đi qua chiếc kệ lấy bình trà và hai cái tách, rót nước mời:

“Uống nước đi anh.”

Việt bưng tách trà hớp một hớp, để tách xuống, vớ vẩn hỏi:

“Cô lãnh lưới dìa đan hồi nào vậy?”

“Hôm kia anh.”

“Ngư phủ mãn mùa còn nghỉ ngơi, còn cô thì hết vá lưới tới đan lưới, như vậy rồi tiền để đâu cho hết.”

Giọng Lan dí dỏm:

“Ối, gặt nhiều chớ mót bao nhiêu anh!”

Hai đứa cùng cười vui vẻ. Lan hỏi sang câu chuyện:

“Anh Việt, nghe nói anh là mọt sách phải hôn?”

“Ai nói?”

“Bạn bè nói, mà Lan cũng thấy nữa.”

Việt cúi xuống nhỏ nhẹ:

“Thì cũng có, nhưng đôi lúc thôi cô à.”

“Anh thường đọc sách gì vậy?”

“Truyện Tàu, nếu không có truyện Tàu, tui chụp được quyển nào, tui đọc quyển đó.”

Lan kể lể:

“Hồi ba Lan còn sống, ổng cũng thích đọc truyện Tàu. Ông thường nói đọc truyện Tàu để biết thế nào là người quân tử. Nghe má nói cũng vì học làm quân tử mà sau khi ra trường, được làm việc trong văn phòng ông không chịu, xin ra tác chiến để bị thành tử quân.”

Nói đến đây Lan cười khúc khích rồi tiếp:

“Sau nầy lớn lên Lan hổng thích làm quân tử, nhứt là quân tử Tàu, nên Lan chọn đọc tiểu thuyết.”

“Cô đọc tiểu thuyết như vậy không bị dì Hai rầy à?”

“Má cưng Lan nên má chiều, vả lại Lan thấy đọc tiểu thuyết có hại gì đâu anh!

Như trúng ý, Việt họa theo:

“Phải rồi, tui cũng nghĩ như cô vậy đó, nhưng nhiều ông bà già không hiểu, cho rằng con gái đọc tiểu thuyết thì...”

Việt ngập ngừng, Lan cười nói:

“Thì... con gái hư phải hôn?”

Cả hai cùng cười. Sau đó Việt hỏi:

“Lan thích đọc tiểu thuyết loại nào?”

“Lan thích đọc truyện của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nói chung là các nhà văn thời tiền chiến, bởi vì văn của họ đọc xong cảm thấy êm dịu, nhẹ nhàng...”

Thấy Việt không nói gì thêm, Lan tiếp:

“Anh có đọc quyển Thuyền Trưởng Mười Lăm Tuổi chưa?”

“Chưa cô.”

“Lan đọc rồi, hay lắm, nếu anh muốn đọc thì Lan cho anh mượn.”

“Ừa, cô cho tui mượn đi.”

“Nhưng phải có điều kiện.”

“Điều kiện ra sao cô nói thử?”

Lan nghiêng mặt, nở nụ cười bí ẩn:

“Dễ ợt... mà anh chịu hông cái đã?”

Việt bồn chồn:

“Thì cô nói đi, nếu được thì tui sẵn sàng.”

Lan mím môi, hinh hỉnh làm dáng, nói chầm chậm:

“Chiều nay anh phải mời Lan đi...”

Việt nóng lòng hỏi tới:

“Đi đâu?”

Lan vòng vo:

“Đi đâu cũng được, miễn chỗ nào thấy vui thì anh dẫn Lan đi.”

Việt như mở cờ trong bụng, đã có ý nầy từ lâu nhưng Việt không dám mở lời, nay Lan gợi ý thì đúng là cơ hội ngàn năm một thuở, làm sao Việt từ chối được. Việt sung sướng quá nên thừ ra không nói thêm được gì. Thấy Việt tần ngần như ngỗng đực, Lan làm mặt thất vọng:

“Hổng chịu hén?”

Việt giựt mình lính quính:

“Chịu... chịu chớ!”

“Chịu hén? Vậy thì chiều nay anh phải lợi nhà mời Lan đàng hoàng à nghen.”

“Nhưng cô phải hỏi dì Hai mới được.”

“Dĩ nhiên, chiều má dìa, Lan hỏi. Nhưng anh đừng lo, má Lan tiến bộ lắm.”

Chiều hôm đó, sau khi dẫn Lan ra phố ăn chè xong, trời cũng vừa tối. Hai đứa mới dắt nhau ra dạo bờ sông rồi men ra vàm Ông-Đốc. Đêm xuống thiệt nhanh, gió bấc non lành lạnh. Đêm nay không biết mùng mấy mà trăng no hơn nửa mảnh, tuy không sáng lắm nhưng đủ soi cả vùng ven, bàng bạc chói lọi dưới dòng sông.

Việt và Lan đi xuống một chiếc cầu lưới de ra khỏi bãi sông nhìn ra biển khơi. Ngoài kia, những chiếc ghe cào bãi đã bật đèn sáng trưng, có lẽ họ đang kéo giác cào đầu tiên.

Lan nói khẽ:

“Đêm nay, lần đầu tiên Lan đi thăm cảnh vùng ven.”

Việt hỏi:

“Vậy à, cô thấy thế nào?”

“Không đến nỗi tệ lắm.”

“Sao, thấy thích hôn?”

“Cũng thích thích. Còn anh thì sao?”

“Tui từ nhỏ tới lớn sống nơi đây, cảnh vật và mùa màng trong vùng quá quen thuộc nên hổng thấy gì đặc biệt. Tui chỉ biết có một điều là xa nơi đây, tui thấy nhớ mùa gió chướng.”

“Lan dìa đây hồi đầu mùa nam nên hổng biết mùa gió chướng, nhưng nghe anh nói vậy chắc mùa gió chướng ở đây đẹp lắm.”

“Đúng vậy, chẳng những đẹp mà còn vui nữa. Mùa chướng nơi đây biển êm gió nhẹ, ghe xuồng vô ra nườm nượp, cá tôm nhiều lắm... Cảnh vật thì khỏi chê, nhứt là những đêm trăng sáng, xuồng chèo xuôi ngược, lâu lâu giữa dòng sông có hơi vọng cổ cất lên cao. Có lần tui nghe văng vẳng tiếng ngâm nga giữa khuya một bài thơ của ai đó, tự nhiên tui thuộc lõm bõm. Sau nầy tình cờ đọc thấy bài thơ đó của ông Tô Đông Pha, tui thích quá ngấu nghiến đến thuộc lòng.”

“Bài thơ đó ra sao, anh đọc cho Lan nghe đi.”

Việt đọc:

Thung thăng thuyền quế chèo loan,
Theo vầng trăng tỏ vượt ngàn nước trong.
Nhớ ai canh cánh bên lòng,
Nhớ người quân tử ngóng trông bên trời.

Lan reo vui:

“Hay quá hén anh! Tiếc quá, Lan xuống đây nhằm mùa gió nam nên hổng thấy mùa gió chướng.”

“Cô còn ở đây mà lo gì, vài tháng nữa hết mùa bấc, sẽ tới mùa gió chướng.”

“Lúc đó anh phải dẫn Lan đi chơi à nghen.”

Từ xa có tiếng súng đì đùng vọng lại, hai đứa đứng lặng ngó ra dòng sông. Chợt tiếp theo là tiếng chuông chùa Hưng Hải ngân lên cao vút. Cả hai không hẹn mà cùng một lượt đưa mắt ngó về phía ngôi chùa. Lan nũng nịu:

“Lan muốn đi chùa, anh dẫn Lan đi nha anh.”

Việt chiều Lan, gật đầu rồi cùng sánh vai đi lên khỏi cầu rồi hướng về Hưng Hải Tự.

Từ đó hai đứa yêu nhau, tình yêu đến rất tự nhiên như phù sa từ đâu cuộn về đây bồi bãi. Trước đây Việt chỉ thích có mỗi mùa gió chướng, nhưng bây giờ Việt thích thêm cả mùa bấc non nữa.

Cuối mùa gió bấc năm đó, giặc tràn về tàn phá thị trấn ven vàm. Dân tình tán loạn, lo tản cư. Việt và Lan chia tay, mỗi người mỗi nẻo. Lần nầy giặc về ở lại luôn cho tới ngày ba mươi tháng tư năm bảy lăm. Sau đó dân chúng mới tụ về. Và rồi mùa nam năm đó, Lan và Việt mới gặp lại nhau. Lan tiếc thương mùa gió chướng đã qua. Việt an ủi: “Thanh bình rồi lo gì, hai đứa sẽ sống mãi ở đây suốt đời và còn nhiều mùa gió chướng khác”.

Mùa đồng chung, khi mưa khi nắng, cảnh vật thay đổi thất thường. Đêm hôm ấy bầu trời ngập mây vảy cá, trăng đầy nhưng ẩn sau lớp mây nên cảnh vật lờ mờ. Việt và Lan rủ nhau ra điểm hẹn của những ngày cũ để nói chuyện, ngắm sông và biển. Sau cuộc chiến vừa qua, chiếc cầu lưới ngày nào không còn nữa, cả dãy nhà lá phía trên bờ sông cũng chỉ còn lại nền tro đen đủi và lưa thưa vài cái chòi lá che tạm với vài ngọn đèn dầu leo lét.

Chỗ hẹn không còn, hai đứa dừng lại bên bờ sông. Việt choàng vai Lan âu yếm:

“Xa nhau nhớ nhau, gặp lại vui mừng, nhưng nhìn cảnh cũ như vầy buồn quá em hả?”

Lan nép đầu vào vai người yêu:

“Nếu không có anh, chắc em hổng dìa đây nữa đâu.”

“Sao vậy em?”

“Buồn hiu như vầy...”

Việt đưa mắt nhìn ra giữa dòng, một chiếc xuồng câu âm thầm lướt nhẹ trong ánh trăng mờ, rồi ngó lên khu phố điêu tàn, nó đổi giọng tin tưởng:

“Thanh bình rồi, ở đây sẽ kiến thiết lợi. Em sẽ thấy, từ khúc sông nầy chạy dài vô tới những kinh rạch miệt trong U-Minh, đâu đâu cũng có tiếng ngâm nga hò hát, nhứt là những đêm trăng đẹp. Anh tin rằng quê hương mình sẽ đẹp gấp trăm lần hồi đó.”

“Đẹp như đêm nay không anh? Lan thủ thỉ.”

“Đêm nay mình còn đứng trên cảnh điêu tàn nên đêm chưa đẹp, nhưng rất thơ mộng, nhờ có em bên anh dưới ánh trăng mơ màng.”

“Ê, đọc tiểu thuyết kìa! Nói đoạn Lan thúc vô hông Việt làm nũng, rồi ngước mắt lên chờ đợi một nụ hôn.”

Mây đen bây giờ đã đóng cục phía trời tây, gió nam lất phất thổi. Lan khoanh hai tay lại, vai rụt xuống nép sát bên Việt:

“Tự nhiên em lạnh phát run nè anh.”

“Chắc em bị cảm rồi, thôi mình đi dìa đi.”

Bỗng nhiên Lan ôm chặt lấy Việt rồi thút thít khóc.

“Đêm nay em kỳ cục quá Lan à!”

Nói đoạn Việt dìu Lan bước đi. Bất thình lình, từ đâu trên dãy nền nhà cháy có một ngọn đèn pin rọi thẳng xuống hai người. Rồi tiếng kéo cơ bẩm súng rốp rốp, tiếp theo là tiếng quát:

“Hai người mần gì ở đây giờ nầy?”

Ngọn đèn pin bây giờ soi thẳng vô mặt Việt. Việt chói mắt né đầu một bên để tránh. Liền theo có ba bóng đen lù lù tới đứng trước mặt. Hai tên cầm hai cây súng M16 chĩa vô mình hai đứa, còn tên nọ thì rọi đèn.

Thôi chết rồi! Tư Hí, trưởng toán du kích, đi chung với hai tên cách mạng ba mươi. Cả thị trấn nầy ai còn lạ gì ba ông trời con đó. Ba thằng chuyên môn rình rập người ta để kiếm chuyện bắt bớ. Hôm nay Lan với Việt quả là xấu số nên mới đụng mặt tụi nầy.

Hai đứa chưa biết nói sao thì Tư Hí lặp lại câu hỏi:

“Hai người mần gì ở đây?”

Việt trả lời:

“Tụi tui đi dạo chơi chớ có mần gì đâu?”

Tự nhiên Tư Hí đọc một tràng:

“Cách mạng giải phóng hầu đem lợi cho thanh niên thanh nữ một nếp sống mới tiến bộ, văn minh và lành mạnh, tránh bỏ những tư tưởng đồi trụy của Mỹ, Ngụy để lợi, anh biết không?”

“???”

Thấy Việt nín thinh, Tư Hí gằn:

“Biết không?”

Thiệt ra Việt và Lan không hiểu chúng muốn nói gì, nhưng nghe chúng làm hùm làm hổ, Việt đáp đại:

“Biết.”

“Biết sao còn mần chuyện dâm ô tại đây?”

Lan giận tái mặt, run lập cập. Việt tức cành hông, nhưng vẫn kiên gan, nén lòng đấu dịu:

“Anh thông cảm, tụi tui chỉ có đi chơi thôi chớ đâu mần gì bậy bạ đâu mà anh nói vậy.”

Tư Hí ngang giọng:

“Khỏi phát biểu linh tinh, bây giờ yêu cầu hai người ra ủy ban cho tụi tui mần việc.”

Lan giằn không được nữa mới chen vô:

“Tụi tui có tội gì?”

“Tội gì thì ra ngoải rồi sẽ biết.”

Việt cố nài nỉ:

“Thôi, anh thông cảm cho Lan dìa, mình ên tui ra ngoải cũng được rồi. Anh nghĩ lợi coi, con gái ban đêm ban hôm ra ủy ban om sòm trời đất thì coi sao cho được, phải chuyện trọng hệ thì nói làm chi, đằng nầy...”

Tư Hí chận họng, giọng ngang tàng:

“Im! Ta nói hổng có phát biểu linh tinh, đi hết cả hai. Đi hôn, hay đợi trói đầu mới chịu.” Nói đoạn Tư Hí ra lịnh cho hai tên kia chĩa súng sát vô hông hai đứa kè đi, giống y như bắt tù vậy.

Sáng hôm sau, giữa chợ đông người, Lan lượm rác, Việt vét đường mương ngay giữa chợ đang nhóm. Họ phạt hai đứa về tội... dâm ô. Lan vừa lượm rác vừa khóc hu hu. Việt móc đường mương, thấy nước thúi pha lẫn bùn đen, nó cũng nghẹn ngào chảy nước mắt. Từ năm mười hai tuổi, Việt mồ côi ba, nó lớn lên trong tình yêu thương của người dân hạ bạc, tâm hồn nó trắng trong không biết trách móc, lọc lừa và oán hận. Ngày cách mạng giải phóng, nó hy vọng tương lai sẽ xán lạn hơn. Việt đâu cần gì ngoài việc sáng cho ghe ra biển đánh cá, chiều về có người yêu trên bến đợi. Những ngày con nước mãn, cùng người yêu chung vai đi dạo cảnh vùng ven. Khung trời của Việt nhỏ quá, giấc mơ cũng đơn sơ quá mà người ta không cho được, như vậy thử hỏi họ giải phóng để làm gì?

Sau cả buổi sáng làm nhục hai đứa, chúng vẫn chưa vừa lòng, trưa còn kêu hai đứa vô ủy ban lên lớp một bài đạo đức cách mạng và lối sống của con người mới. Sau đó mới thả hai đứa về.

Trưa hôm đó Việt trở xuống bến làm việc mà lòng nóng như lửa đốt. Nghĩ tới Lan, Việt thương nàng hết sức, nó định bụng chiều về an ủi Lan và nhận hết những lỗi lầm về mình cho nàng vui.

Lúc trời chiều, mây đen tụ trên khoảng không, trời sắp đổ mưa, Việt kéo viền lưới xếp gọn lại trên sàn ghe. Bất chợt con Cúc hớt ha hớt hải, vừa chạy xuống bến vừa réo:

“Anh Việt! Anh Việt!...”

Linh tính như báo trước có điều chẳng lành, Việt buông viền lưới, lập tức chạy lên thì Cúc cũng vừa tới trước mặt. Cúc hào hển, vừa thở vừa nói:

“Anh Việt ơi, con Lan tự vận chết rồi!”

Việt đứng chết trân như trời trồng. Một hồi sau mới vụt chạy lên bến, miệng gào thét:

“Trời ơi trời! Lan em, tại sao như vậy!”

Rồi như người điên, Việt đâm đầu chạy một mạch về nhà. Lúc đó cơn mưa chiều bắt đầu rớt hột.

Chuyện đã qua hơn hai năm rồi. Cứ mỗi lần mùa mưa đến, khi gió nam bắt đầu thổi, Việt lại nhớ như in trong trí. Cũng từ ngày đó, môi nó thường mấp máy như nói chuyện với ai.

Đêm nay cũng vậy, Việt ngồi láp dáp một mình. Bà Tư nghe không rõ, hỏi:

“Việt, con nói gì đó?”

Việt hoàn hồn day lại:

“Con có nói gì đâu má!”

“Khuya lắm rồi sao con hổng đi ngủ?”

“Gần tới giờ hẹn rồi, con phải đi má à.”

“Cái thằng lớn tật, mưa gió như vầy mà nằng nặc đòi đi cho kỳ được.

Việt bỏ chưn xuống đất, cởi sợi dây chuyền vàng, đi lại trao cho bà Tư:

“Má cất sợi dây giùm con.”

Bà hơi ngạc nhiên:

“Sao con hổng đeo?”

“Con hay nhậu nhẹt ngủ lợi nhà người ta, rủi gặp người không tốt, họ lột mất dìa nhà má rầy.”

Nghe con nói vậy, bà cầm sợi dây chuyền, cẩn thận vén vạt áo ngoài bỏ vô túi áo bên trong. Bà hỏi:

“Con đi đâu đó?”

“Con vô U-Minh má.”

“Rồi chừng nào con dìa?”

Việt nhìn ra ngoài. Trời tối đen như mực, ngọn gió nam trên bắt đầu thổi mạnh, tấm rèm bên hè sầm sập đập vô mé hiên. Mắt Việt chợt sáng:

“Chừng nào hết dông hết gió, chừng đó con dìa má.”

Bà Tư căn dặn:

“Nhớ khi gió giựt, con dìa liền để hổng thôi má trông, sốt ruột lắm đa.”

Việt vô buồng lấy chiếc áo mưa với mấy bộ quần áo gói trong chiếc khăn choàng tắm. Một lát sau trở ra, bận áo mưa vô, xong Việt chụp ôm bà Tư hun một cái, nói:

“Con đi nhe má.”

Nói đoạn Việt vụt đi ra, vén tấm phên cửa bước thiệt nhanh ra ngoài. Bà Tư thấy cử chỉ con mình hôm nay sao lạ quá, nhưng hồi nào tới giờ, bà tin con bà chưa hề dấu bà bất cứ chuyện gì, bà liền xua nghi ngờ ra khỏi tâm trí. Nhìn qua góc cột, thấy cái nón của con còn treo trên đó, bà bước vội xuống đi lấy, rồi ra vén tấm phên cửa, ló đầu ra ngoài kêu lớn:

“Việt! Việt! Sao con hổng đội nón?”

Hai ba tia chớp nhá lên liên tục chói lòa, bà Tư thấy bóng đứa con sựng lại trước sân rồi bỗng nó lao nhanh trên con đường đất hướng ra nghĩa trang bìa rừng.

   

Nguyễn Lê Hồng Hưng
(1987)
(Trích từ "Dòng Sông Sữa Mẹ", tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Lê Hồng Hưng)

 

 

 

 

Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhocnghethuat/van/raditrongdemmuamua.html


Cái Đình - 2025