Nguyễn Lê Hồng Hưng
Mùa lặng im của sự sống
Những ngày mùa thu, sương mù thường xuất hiện vào những đêm trời quang đãng, không có gió, khi mặt đất nguội đi nhanh chóng, khí ấm và không khí ẩm nguội, khiến hơi nước ngưng tụ thành những giọt nhỏ lơ lửng trong không khí. Mỗi khi nhìn thấy sương mù, tôi thường quay về sống bên trong mình, cho nên những ý nghĩ thường hay “lan man”. Những lúc như vậy, tôi mở laptop ra để gõ bàn phím ghi lại những dòng lan man đó.
Sương mù thường xuất hiện lúc giữa đêm và kéo dài cho tới ngày hôm sau, vì thường đạp xe hoặc đi bộ vào những giờ này nên tôi biết. Sương mù hiện ra trên cây cỏ và lan khắp môi trường xung quanh, đó là ấn tượng in sâu trong tâm trí tôi. Nhớ những năm còn làm thủy thủ, tôi ngán nhất là sương mù trên vùng Tô Cách Lan, nó dầy đặc như bức tường trắng, có điều gì đó rất kỳ lạ, rất huyền bí và nó có sức mạnh khiến cho bến cảng phải tê liệt hết, có khi cả ngày. Sương mù Tô Cách Lan đã khiến người dân ở vùng hồ Loch Ness tạo nên huyền thoại con quái vật bí ẩn thỉnh thoảng trồi đầu lên.
Sáng nay, sương mù phủ lên khu phố nhỏ Dronten, nơi tôi ở. Nó lan qua những mái nhà, len xuống mặt nước con kênh, rồi dừng lại quanh những con tàu du lịch đang nằm im bên bến. Sương loãng thôi, nhưng làm tôi có cảm giác như nó đủ sức ghì mọi thứ đứng yên. Cả khu vực rơi vào một nhịp thở rất chậm, như thể có bàn tay vô hình của thiên nhiên đang đặt lên lưng lành lạnh, như nhắc nhở tôi dừng lại một chút để lắng lòng...
Điều làm cho mùa thu ở Hà Lan trở nên đặc biệt là những buổi sáng sương mù se lạnh. Sương mù thật kỳ lạ. Trắng đục như sữa, nhẹ tênh, tưởng hiền lành mà chứa đầy hiểm nguy. Người đi rừng, người lái xe, kẻ lái tàu nếu không có la bàn thì ai cũng lo sợ có thể lạc đường trong màn sương trắng đục đó. Chỉ cần vài phút mất phương hướng, tai họa có thể ập đến mà không kịp né tránh.
Có lẽ vì vậy mà đứng giữa mù sương, người ta dễ liên tưởng đến một cảm xúc quen thuộc mà chẳng ai muốn đối mặt đó là sự sợ hãi.
Nỗi sợ cũng giống như sương, không thể nắm bắt, không nhìn rõ được, nhưng lại bao trùm hết cả đời sống. Càng cố xua nỗi sợ đi, ta càng thấy nó len sâu hơn vào bên trong tâm thức. Nhưng qua những giây phút mờ mờ ảo ảo, như sáng nay, tôi phát hiện ra thiên nhiên, dạy một bài học giản dị mà ta thường quên mất: đừng chống lại, hãy nhìn thẳng và chấp nhận nó.
Nhưng “chấp nhận” không có nghĩa là chối bỏ hay buông xuôi. Nó là nghệ thuật quay về, thật vậy nhất là những ngày âm u lạnh lẽo như vầy, ta dễ ngồi yên trở về quan sát chính mình: nhìn lại thân tâm, nhìn lại những rung động đang lên xuống trong lồng ngực, và không để hoàn cảnh bên ngoài dắt dẫn. Con người nhiều khi bám víu vào tín ngưỡng như một chiếc phao, dựng lên những bức tường vô hình để che chở cho mình. Tụng vài câu kinh, ngồi nhắm mắt hoặc lim dim thật lâu, nghĩ rằng như vậy là đủ để cho thành đấng cao trượng. Nhưng nếu chưa hề hiểu tâm mình đang làm gì, ta cũng chẳng khác gì người dùng thuốc tê để quên nỗi đau, rồi một ngày nào đó bỗng giật mình nhận ra mình đã đánh mất cảm giác của sự sống.
Tôi cũng là người như vậy đó. Từng quen với một loại niềm tin cố định đến mức không dám thử điều mới, không dám bước ra khỏi vùng an toàn của chính mình. Chỉ vì sợ. Sợ thay đổi thói quen. Sợ mình không đúng. Sợ người ta đánh giá thấp. Sợ những cái mới mẻ khiến mình lúng túng.
Càng bám víu, tôi càng cảm thấy một loại kiêu ngạo vô thức len vào trong đức tin của mình. Ngày đó, tôi tin rằng chỉ cần đọc thuộc vài bài kinh, nghe vài câu chú mơ hồ khó hiểu của một vị thầy, tin rằng mình đang đúng, và từ đó không muốn nghe thêm lời khuyên nào nữa. Tệ hại nhất là mạnh miệng phê phán cổ đức, chỉ trích những bậc hiền triết. Nghĩ lại, tôi thấy đó không phải niềm tin, mà là một lớp vỏ cứng dùng để che đậy sự hoang mang bên trong.
Còn một điều khác khiến tôi tỉnh ra không phải nhờ lý thuyết của tôn giáo, mà là tôi gặp những con người thật sự vững vàng. Đứng trước những nơi đầy bạo lực, bất công, họ vẫn giữ được sự hiền hòa, trong sạch, và tỉnh táo. Họ có thể chấp nhận mất mát, thậm chí mất cả sinh mạng, mà không mang trong lòng oán hận. Ở trong tâm họ, tình yêu với quê hương, bảo vệ môi trường và sự sống, mạnh hơn nỗi sợ. Nhìn họ, tôi mới hiểu: người can đảm không phải người không sợ, mà là người kiểm soát được sự sợ hãi của mình.
Cuối năm ở Âu châu ngày ngắn, đêm dài, tuy lạnh lẽo nhưng luôn mang một vẻ trang nghiêm, trầm mặc mà kiêu sa. Nhà nhà treo đèn kết hoa, đường phố sáng rực để tưởng nhớ hay chờ đợi một vĩ nhân sinh ra hơn hai ngàn năm trước. Những ánh đèn khiến sương mù bớt đặc, đêm đông bớt lạnh và lòng người ấm lại đôi chút. Nhiều người tìm đến những nơi thờ phượng cầu nguyện, tìm chút phước lành cho năm sắp tới. Nhưng thiên nhiên vốn đã có chu trình của nó – có cầu hay không, mọi chuyển hóa vẫn đều đặn xảy ra.
Lá già úa đi, rụng xuống, mục nát, rồi hóa thành lớp phân bón nuôi hạt mầm trong lòng đất suốt mùa đông. Khi xuân về, chồi non bật dậy, đâm nhánh, kết hoa. Cuộc sống của con người cũng y chang như vậy. Tuổi trẻ là mùa xuân ồn ào, nồng nhiệt. Trưởng thành là mùa hè, rực rỡ và thử thách. Trung niên là mùa thu, chín muồi và thấm thía. Cuối cùng là mùa đông, mùa của tĩnh lặng; là lúc ta học cách quay về bên trong, hiểu rõ hơn bản chất của sự tồn tại.
Cho nên chúng ta không cần cầu xin điều gì, mọi thứ vẫn theo chu kỳ của nó mà đến. Ngay cả cái chết, suy cho cùng, cũng chỉ là một cánh cửa mở sang một khởi đầu mới, cũng giống như hạt mầm đang ngủ im dưới đất kia, chờ ánh nắng hiền hoà đầu tiên của mùa xuân.
Mùa đông khiến bóng tối kéo dài. Ngày ít lại, đêm nhiều hơn. Nhưng không vì vậy mà sự sống tắt đi. Cây cối rụng lá để thu mình lại sống bên trong. Muông thú cũng tìm nơi ẩn nương. Đất trời yên lặng, nhưng bên dưới mặt đất, những mầm xanh vẫn âm thầm chuẩn bị cho lần trỗi dậy tiếp theo. Trong cái lặng im ấy, ta nhìn thấy sự sống chưa bao giờ mất, nó chỉ đang âm thầm thở chậm hơn và sâu hơn.
Nếu chịu dừng lại một chút, ta sẽ nghe được tiếng gió thì thầm qua cành cây tươi trơ trụi, thấy hơi ấm của đời trong làn khói mỏng manh, và nhận ra một cái bánh thơm mùi quế, một tách trà ấm cũng có thể trở thành chiếc cầu dẫn ta trở về với chính mình.
Mùa đông, hóa ra, không đến để làm ta lạnh. Nó đến để dạy ta cách giữ ấm: bằng một nụ cười, một lời hỏi han, hay một sự bình an thật đơn sơ trong tâm. Đến một lúc nào đó, ta hiểu ra rằng: mọi bóng tối đều mang trong mình hạt mầm của ánh sáng.
Còn con người thì sao? Lắm khi lại sống ngược với tạo hoá, với thiên nhiên. Người ta vẫn toan tính, ganh đua, gây chia rẽ, hận thù. Lợi dụng những ngày lễ của thánh nhân quan trọng bày biện tiệc tùng, bàn chuyện hơn thua và tìm cách hãm hại nhau, khiến mùa đông càng thêm buốt lạnh. Ta tự đẩy mình vào những vòng xoáy không cần thiết, để rồi trách rằng cuộc đời sao cứ mãi tối tăm.
Giá như ta chịu để mọi chuyện thuận theo tự nhiên và để thời gian làm công việc của nó, cũng như ta nhìn nỗi sợ bằng một ánh mắt khác, nhẹ nhàng hơn, bao dung hơn. Được như vậy, dù ánh sáng có ngắn hơn đêm, ta vẫn giữ được ngọn lửa trong tim.
Nhìn xem vào những ngày bớt đi ánh sáng, vẫn còn có những người treo đèn trước cửa. Vẫn có những gia đình quây quần chia sẻ bữa ăn ấm áp. Vẫn có những lời chúc bình an được trao nhau giữa sương mù giá lạnh. Và nhờ những điều nhỏ nhặt ấy, bóng tối của cuộc đời không còn chỗ chen vào lòng ta được nữa.
Nguyễn Lê Hồng Hưng
Dronten 14-11-2025
Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhocnghethuat/van/mualangimcuasusong.html