Võ Kỳ Điền
Đời chia như nhánh sông – Nguyễn Thiên Thụ
Trong mớ ký ức mơ hồ, tôi chợt nhớ lại chuyện đọc được ở trong sách, có một ông Tây già, rất già ngồi trên chiếc xe lăn, suốt ngày quanh quẩn tới lui bên cái tủ sắt lớn đặt cạnh lò sưởi ấm áp lập lòe than hồng. Niềm vui sướng riêng tư của ông là lọ mọ lấy chiếc chìa khóa đeo bên hông, mở cánh cửa tủ ra lấy những đồng tiền vàng (écu d'or) mà cả đời ông tom góp chắt chiu được, rồi lọm khọm run rẩy lấy chúng ra săm soi, rờ mó, nâng niu, ngắm nghía bằng đôi mắt lèm nhèm... Cứ như vậy ngày nầy qua tháng kia, lấy đó làm vui thú. Những đồng tiền tuy nhỏ tưởng là lạnh lẽo mà lại ấm áp, thân tình, chúng đem đến cho ông nhiều vui sướng lẫn hạnh phúc. Ôi, những đồng tiền vàng quí báu mà ông chắt chiu tom góp cả đời.
Đó là bài học tuổi thơ tôi còn nhớ được của tác giả nổi tiếng Honoré de Balzac có tựa đề là Người Hà Tiện (L'avare) trích trong tác phẩm Eugénie Grandet của nền văn học Pháp thế kỷ XIX. Bài học nầy đã trên bảy mươi năm rồi, tại sao bây giờ tự nhiên được nhớ lại, bởi vì hoàn cảnh của ông già hà tiện kia, giống hệch cảnh tôi bây giờ tuy có khác một chút thôi. Tôi cũng có cái xe lăn, cũng có cái lò sưởi, cũng sống ở trời Tây nhưng khác ông hà tiện nầy một điểm là không có được những đồng tiền vàng lóng lánh kia. Hoàn toàn không có mà cả đời cũng chưa bao giờ có được luôn. Vì vậy tôi phải tìm ra những đồng tiền vàng của riêng tôi.
Ngày mãn khóa Việt Hán Đại Học Sư Phạm Sài Gòn năm đó, Giáo Sư trưởng ban Nghiêm Toản đã ân cần dặn dò những lời thắm thiết thân tình “... hôm nay là ngày cuối khóa học nhưng là ngày bắt đầu những phấn đấu khổ sở gian nan cho tới già, không còn được nữa năm tháng yên vui thời sinh viên. Khi ra đời nhớ đừng sáng quá, nếu sáng quá, người ta sẽ làm cho mình lu bớt đi. Cũng nhớ đừng nhọn quá, nhọn quá người ta sẽ làm cho minh lụt bớt lại...” Đại khái thầy dạy như vậy và tôi đã nhớ như vậy.
Rõ ràng là thầy nhắc nhở cách sống an phận thủ thường của một nhà giáo khiêm tốn, nên tránh xa những tranh chấp, bon chen, hơn thua... cho đời tạm bớt khổ. Đức Phật cũng đã từng dạy đời là bể khổ mà, nước mắt nhân loại chứa đầy đại dương. Bây giờ già gần cuối đời những lời dặn dò của thầy vẫn còn văng vẳng bên tai, tuy đơn giản nhưng hình như không trật. Khó khăn tôi đã gặp, đau khổ đã từng, mỗi khi vấp ngã cũng chỉ phạm vào vài điểm “sáng và nhọn” đó thôi. Loay hoay trên đường đời, vẫn cứ thỉnh thoảng chợt nhớ chợt quên lời thầy dặn. Một trong những đồng tiền quí báu tôi có là những kỷ niệm tươi đẹp thời sinh viên trong sáng vô tư mà thế giới xung quanh là thành phố nhà cửa bắt đầu cuộc nội chiến tràn ngập lửa đạn tơi bời.
Đầu óc người già như tôi bây giờ, những gì hiện tại thì dễ quên và quên mất tiêu, những gì của quá khứ thì vẫn còn nhớ và nhớ rất rõ. Đó là những năm tháng mới lớn thời sinh viên yêu đời. Chỉ biết có ăn và học với những bạn bè gần gũi xung quanh.
Người bạn mà tôi mỗi lần nhớ tới là mỗi lần khổ tâm. Không phải vì bạn gây phiền hà gì, trái lại bạn rất thân tình, người đàng hoàng, nghiêm chỉnh, điềm đạm, nói giọng Quảng Bình dễ nghe thường đeo kính trắng gọng vàng, tánh tình khá hiền lành, chững chạc, đẹp trai, vóc dáng cao lớn phương phi. Bạn tốt đẹp như vậy, tánh tình dễ thương hiền lành như vậy, tại sao lại khiến tôi khổ tâm? Số là mỗi lần nhắc tới bạn là vì cái tên chữ nho rắc rối. Cũng tại cái tánh ưa rắc rối của tôi thôi. Tên bạn khá đẹp, Nguyễn Thiên Thụ. Tôi cố tìm hiểu mà tìm hoài cũng không hiểu, Thiên Thụ là gì?
Chiếc ấn ngọc tỷ của Tần Thủy Hoàng ngàn năm trước được khắc tám chữ triện: “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương” (Nhận mạng ở trời, vượng thịnh đời đời) Vậy tên bạn được trích ý tứ từ hai chữ trên chăng? Rõ ràng là như vậy.
Nhưng nếu trích từ câu nói nầy thì tại sao khi đặt tên cho trang nhà của mình, giáo sư tác giả Nguyễn Thiên Thụ lại đặt là Sơn Trung Thư Trang. Sơn Trung nghĩa là trong núi, mà trong núi thì chỉ có cây và đá. Vậy Thụ ở đây nghĩa là “cây” không phải là “nhận” như trong chiếc ấn ngọc tỷ Biện Hòa!
Cũng chữ “thụ” rắc rối nầy. nó khiến tôi liên tưởng đến câu nói người xưa “Nam nữ thụ thụ bất thân”. Người xưa sống theo lễ giáo nho gia, trai gái khi giao tiếp phải giữ lễ nghĩa, không được tiếp xúc thân mật. Câu nói nầy ai cũng hiểu và thường dùng. Nhưng “thụ thụ" là gì? Tại sao Đức Khổng dùng tới hai chữ "thụ"?
Có người cho rằng chữ "thụ" đầu là “cho đi” và chữ "thụ" sau là “nhận lại”.
Các tác giả Trung Hoa và Pháp đều cho là như vậy:
1. Phrase originale: câu gốc:
男女授受不親
(Nam nữ thụ thụ bất thân).
2. Traduction littérale: dịch từng chữ:
Hommes et femmes – donner / recevoir (đàn ông và đàn bà – cho / nhận).
3. Sens: Les hommes et les femmes qui ne sont pas mariés ne doivent pas avoir de contact physique direct lors d’un échange.
Nghĩa: Đàn ông và đàn bà chưa kết hôn không được trao nhận trực tiếp.
Xét về ý thì đúng, dịch tiếng Pháp là donner / recevoir cũng đúng. Chúng ta có biết được chữ ”truyền thụ" là ban cho hay dạy dỗ.
Nhưng về ngữ pháp chữ Hán thì e rằng chưa chính xác. Tôi phân tách đơn giản như vầy: Chữ "thụ" đầu là nhận, chữ "thụ" sau là cái được nhận (quà tặng).
Chữ trước là động từ (verbe), chữ sau là túc từ (complément). Để dễ hiểu tôi tạm dịch là “thụ thụ là nhận cái được nhận”. Cái được nhận là quà tặng chớ còn gì nữa.
Toàn câu là “Trai gái khi nhận được quà tặng không nên quá gần gũi thân mật nhau. Chuyện tưởng đơn giản nhưng không đơn giản chút nào.
Nhắc đến bạn Nguyễn Thiên Thụ với lòng quí mến người bạn hiền, nhớ những lần bạn lên Bình Dương thăm tôi và những buổi gặp gỡ nhau ở Toronto thân tinh. Bạn là một trong những đồng tiền vàng mà tôi có được.
________
Tác Giả NGUYỄN THIÊN THỤ
Sinh năm 1937 tại Quảng Bình, bút hiệu Sơn Trung, Gia Hội. Học sinh ban Văn Chương sinh ngữ trường Quốc Học Huế, sinh viên Đại Học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Sau 1975 ẩn cư. Định cư cùng gia đình tại Ottawa, Gia Nã Đại năm 1995.
1969 Cao Học Văn Chương.
1964-1070 Giáo sư trường Trung Học Lê Ngọc Hân, Mỹ Tho.
1974 Tiến sĩ Văn Chương phần thứ nhất tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
1974 Cao Học Giáo Dục Đại Học Sư Phạm Sài Gòn.
1970-1975 Giảng sư trường Đại Học Văn Khoa Sàigon, giáo sư thỉnh giảng tại các trường Đại Học Vạn Hạnh, Cần Thơ, Cao Đài, và Hòa Hảo.
2003 Cử nhân Văn Chương Anh tại trường Đại Học Carleton, Canada.
Tác phẩm:
- Phương Pháp Nghị Luận và Phân Tích Văn Chương, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1971.
- Nghệ Thuật Hành Văn, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1972.
- Nguyễn Trãi, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1973.
– Tản Đà, Thực và Mộng, Lửa Thiêng, Sài Gòn, 1974.
- Văn Học Sử Việt Nam: Văn Học Hiện Đại, 4 tập, 2200 trang. Gia Hội, Canada, 2006.
Các sách dạng điện tử e-books:
- Những Con Cáo Đỏ
- Cộng Sản Luận
- Sơn Trung * Thư tịch Nhà Tù Cộng Sản (1)
- Sơn Trung * Thư tịch Chiến tranh Việt Nam 2 (1)
- Sơn Trung * Thư tịch Chiến tranh Việt Nam 1 (1)
- Sơn Trung * Thư tịch Cải Cách Ruộng Đất Tại Việt Nam (1)
- Sơn Trung * Thư tịch Nhân Văn Giai Phẩm (1)
- Sơn Trung * Thư tịch Vượt Biên
- Sơn Trung * Tài liệu Chiến Tranh Việt Nam (93)
- Sơn Trung * Tài liệu Vượt Biên
(có tại trang nhà Sơn Trung Thư Trang http://sontrung.blogspot.com).
____________
Tác phẩm chưa xuất bản:
- Văn Học Sử Việt Nam: Văn Học Cổ Điển
- Văn Học Sử Việt Nam: Văn Học Cận Đại
- Thơ Mới
- Giáo Dục Việt Nam Thời Nho Học
• Nguồn: http://quanvan.net/nguyen-thien-thu-nhung-con-cao-do/
Bạn Nguyễn Thiên Thụ lại chơi khá thân với bạn Đoàn Viết Biên. Trong lớp có những bạn lớn tuổi hơn chúng tôi nhiều, được gọi là anh hai với chị hai. Tôi còn nhớ thêm được vài bạn: Nguyễn Chí Cường, Hoàng Chiều Nhân, Lê Thị Nguyệt Ánh... Bạn lớn tuổi hơn thì cái nhìn rộng lớn hơn, điềm đạm, chững chạc hơn, cách cư xử giao tiếp khéo léo khôn ngoan hơn các bạn trẻ, dĩ nhiên rồi.
Mỗi lần nhắc tới anh hai Đoàn Viết Biên thì tôi lại nhớ tới tên đặc biệt của anh – đã viết rồi mà lại còn biên. Có cái tên đẹp như vậy cả đời sẽ gắn liền với sách vở, bút mực, anh Đoàn Viết Biên học khá giỏi, bạn bè cùng khóa ai cũng quí mến.
Võ Kỳ Điền
Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhocnghethuat/van/doichianhu_nguyenthienth.html