Ngu Yên
Ocean Vương và tác phẩm Thời Gian Là Một Người Mẹ
Tập thơ mới của thi sĩ Ocean Vương, do nhà xuất bản Penguin Press / New York
vừa phát hành trong năm 2022. Dày 114 trang, 28 bài thơ, chia làm bốn phần.
Giá bán sách bìa cứng: 24 USD.
Chúng ta bắt đầu bằng nhận xét với nhà phê bình Cathy Duong, tại đại học Yale, chuyên về văn chương, nghệ thuật và văn hóa Việt:
“Những bài thơ của Vương đối diện với những căng thẳng khi trở thành một nhà thơ da màu nổi tiếng trong ngành xuất bản tại Hoa Kỳ. Anh ta biết, có những nhà văn xem những trải nghiệm về tiếng Việt kỳ lạ là một loại tiền tệ văn học, bảo đảm cho sự thành công của anh. […]
Vương mạnh dạn quyết định biến nỗi đau Việt và những tổn thương giữa các thế hệ thành vẻ đẹp. “Để trở thành một con đập thiệt hại,” Vương tiếp tục viết trong bài thơ “Not Even This.” “Tôi nghĩ, sự tồi tệ của mình sẽ không thể xâm nhập vào thế giới và nhanh chóng trở thành anh hùng của mình.” Quyết định rằng “từ nay sẽ là niềm vui”, bài thơ kết thúc bằng sự tái sinh của Vương. Hình ảnh vượt qua những thương tích giữa các thế hệ, anh viết: “Những ngọn đèn rực sáng chung quanh tôi thành một khí hậu trắng xóa / và tôi bay bổng, ướt đẫm máu, ra khỏi mẹ, vào thế giới, gào thét / và có đủ.” […]
Trong bài thơ “Nothing”, người kể xúc tuyết với người bạn đời, Peter: “Người đàn ông này và tôi, lấy những gì sẽ biến mất, bỏ qua một bên, cho trống chỗ.” Người kể chứng kiến cảnh Peter âm thầm đương đầu với lịch sử của gia đình mình, cách anh ta hiểu tên anh được đặt theo tên của ông chú, em của bà nội, người Do Thái, đã chết khi chạy trốn Stalin. “Người em trai dưới đống gạch đá đổ nát, tên ông bay khắp nơi chung quanh bà như tuyết rơi trên mặt anh bốn mươi năm sau …” […] Tuyết là một ẩn dụ cho ký ức người chết và lịch sử đè nặng lên người sống, như những kỳ vọng và cảm giác tội lỗi. Theo thời gian, tuyết sẽ tan, và nỗi đau có thể biến thành những thứ khác. […]
Những bài thơ trong Time is a mother cho rằng con cái của những người nhập cư, với những trải nghiệm độc đáo, không hoàn hảo trở thành người Mỹ và tiếp nhận văn hóa của cha mẹ, có thể cho phép bản thân trở thành gốc rễ ổn định cho tương lai. Nỗi đau, cảm giác tội lỗi, xấu hổ và chấn thương giữa các thế hệ trong gia đình nhập cư có thể biến đổi thành một thứ gì dịu dàng hơn, nhẹ nhõm hơn, như một vẻ đẹp.” (Cathy Duong.)
o 0 o
Trong cuộc phỏng vấn với Hua Hsu trên The New Yorker số ngày 10 tháng 4 năm 2022, Ocean Vương đã trả lời nhiều câu hỏi đa dạng về tâm sự và sáng tác. Việc này làm sáng tỏ một số ý nghĩ, một số mặc cảm, một số nghi ngờ của những người Việt lưu vong và di dân trong lãnh vực sáng tác. Tôi chỉ trích ít câu hỏi mang tính đại biểu:
Hua Su (HS):
Bài viết của anh luôn luôn thể hiện rất nhiều nhận thức về thế giới chung quanh. Tôi không phải là người học về thơ, vì vậy tôi dễ bị lôi cuốn bởi những điều cơ bản trong tác phẩm của anh. Tôi không có thuật ngữ cho nó. Nhưng tôi thích cách anh vay mượn nhiều lời nói trong thời đại chúng ta. Trong Time is a mother, anh đề cập đến ca sĩ Ashanti; rồi trong một bài thơ khác, dùng căn bản là danh sách mua hàng trên Amazon; một bài nữa ghi lại nhịp điệu của AOL trò chuyện. Anh muốn chúng tôi cảm nhận điều gì về lời lẽ ăn nói hàng ngày?
Ocean Vương (OV):
Đây là cuốn sách tôi tự hào nhất. Thông thường, vào thời điểm này, khi xuất bản, tôi hối tiếc về nhiều thứ. Nếu có thể có điều kiện, tôi sẽ chọn trì hoãn xuất bản cuốn thơ thêm hai năm nữa. Việc này xảy ra cho cuốn tiểu thuyết, xảy ra với những bài thơ. Nhưng lần này, tôi cảm thấy thực sự hạnh phúc trong việc xuất bản, với tư cách là một nghệ sĩ … Tôi không biết như vậy là tốt hoặc “thành công”, nhưng tôi cảm thấy mình đã không thỏa hiệp với bất cứ điều gì. Tôi đã làm những gì tôi muốn, bao gồm việc sử dụng những ngôn ngữ thành hình cùng thời với tôi.
Tôi cân nhắc điều này nhiều hơn một chút trong cuốn tiểu thuyết, nhưng chắc chắn không đủ can đảm, không đủ trơ tráo để thực hiện trong “Night Sky.” Tập thơ này đối phó với những câu chuyện thu thập từ gia đình. Đó là tài liệu tôi thừa hưởng, không thể để bị ảnh hưởng quá nhiều. Tôi không muốn sử dụng quá nhiều sự sửa đổi của ngôn ngữ … nó phải được hạn chế. Tôi quyết định như vậy. Tôi không muốn cười vì việc này, trước cơ hội độc giả da trắng cười với tôi, theo kiểu cười vì những gì tôi chưa từng trải qua, nỗi tổn thương của những người lớn tuổi của tôi. Đây là một ranh giới tinh tế, tôi không thể mạo hiểm. Đó là cuốn thơ âm u, nhưng nó không giống như những gì tôi có thể làm. Một cuốn sách cổ điển, trong đó tôi đã trình bày tất cả các phương tiện đã học để chiếm một ghế ngồi trong bàn ăn. Hình ảnh sắc sảo, ẩn dụ, cô đọng. Tôi đưa ra những bài thơ dài, thơ ngắn trữ tình.
HS:
Vào thời điểm đó (lúc sáng tác thi tập Night Sky), anh có ý thức đang làm theo công thức này cho cuốn thơ đầu tay?
OV:
Tôi nghĩ vậy. Vì tôi là một sinh viên, thích thú làm sinh viên của hình thức. Tôi đưa các tài liệu đã thừa hưởng vào và chỉ làm theo mô hình của các người lớn. Nhưng đó là một cuốn sách không an tâm. Đại loại như, tôi có thuộc vào chỗ này không? Tôi thực sự có thứ này không?
HS:
[…] Anh bắt đầu một bài thơ như thế nào? Từ một chữ, một hình ảnh hay một ý tưởng?
OV:
Mỗi thi sĩ có thể nói với anh điều gì đó khác nhau, nhưng đối với tôi có hai phương thức chung: Một là bài thơ theo tiền đề, hai là bài thơ theo câu thơ. Theo câu thơ tương tự như “riff” (một loạt hợp âm nối nhau thành từng đoạn ngắn) trong nhạc Jazz (tức là một hình thức ngẫu hứng). Anh có một câu thơ vừa ý, sau đó, sẽ nỗ lực xây dựng bài thơ trên câu đó. Cách này thích thú và khám phá hơn nhiều. Bài thơ “Almost Human” sáng tác như vậy. Tôi bắt đầu từ câu thơ, “Tôi sinh ra từ dân tộc của những nhà điêu khắc có kiệt tác là đống đổ nát.” rồi tự hỏi, “chà, làm thế nào để khai thác thêm câu thơ này?”
Làm thơ theo tiền đề giống như bài “Sara”. tôi sẽ đối đáp và khảo sát sự phát biểu của Sara. Tôi biết, tôi muốn tìm những điểm chung với cô ta. Đó là mục tiêu, tương tựa như bài tiểu luận hoặc thậm chí là một chương trong cuốn tiểu thuyết. Giống như, chúng ta sẽ kết thúc ở đâu vào lúc cuối chương? Sẽ có ly dị? Làm sao để cấu trúc chuyện này? Bài “American Legent” là một bài thơ tiền đề khác. […]
HS:
Anh có viết những điều quá thân mật hoặc mang tính cá nhân mà anh muốn giữ riêng tư?
OV:
Không. Tôi rất ít khi viết. Tôi không viết mỗi ngày. Tôi không phải là người chỉ cần ngồi xuống là nghĩ ra bài viết. Tôi làm vào khoảng năm bài thơ một năm. Đó là năm thuận lợi. Rồi trong năm bài tôi sẽ hài lòng với bốn bài. Điều đó không có nghĩa là tôi không thất bại. nhưng tôi đã thất bại nhiều lần ở đây (chỉ vào đầu). Có nhiều bản thảo trong đó. Tôi chỉ chọn lọc cẩn thận khi thực sự quyết tâm sáng tác. Mỗi khi ngồi xuống để viết, rất có thể là bài thơ sẽ xuất bản. Tôi không phải là người ghi chép nhật ký, không thực sự viết cho chính mình. Đây là công việc, cần đối xử nghiêm túc. Làm thế nào để biến điều này thành thứ gì đó có ý nghĩa cho người khác? Anh không biết câu trả lời nhưng luôn luôn nâng cao tiêu chuẩn cho chính mình và hy vọng nó được truyền đạt. Làm thế nào điều hữu ích này truyền đạt ra công chúng? Vì viết là giao tiếp. Nếu chỉ giao tiếp với bản thân, tôi chỉ cần nói chuyện với mình. Tôi vẫn thường xuyên làm vậy. Tôi chỉ trải ý tưởng bằng cách nói ra. Nhật ký của tôi được phát hành trong không khí, nếu anh muốn.
(Hua Su thực hiện.)
o 0 o
Ocean Vương cho xuất bản hai tập thơ liên tiếp: Night Sky With Exit Wounded năm 2021 và Time Is A Mother năm 2022, mặc dù, anh cho biết, mỗi tập thơ được sáng tác trong mỗi khoảng thời gian khá dài, tôi nhận thấy có sự phát triển khác biệt giữa hai tập thơ.
Trong ngôn ngữ diễn tả, tập thơ sau sử dụng lời lẽ bình dân hơn, cho dù cả hai đều không có ngôn ngữ quá khó hiểu. Chúng ta thấy được trong tập thơ sau có những thể loại ngôn từ dùng trong text, email, kể cả dùng trong đơn đặt hàng. Tuy ngôn ngữ đơn giản nhưng tứ thơ của anh lại rất phức tạp. Hình ảnh và lời lẽ tạo ra tứ thơ trở thành ngụ ý và ẩn ý. Sự phức tạp này mật độ hơn và sâu sắc hơn trong tập thơ Time Is A Mother.
Sự phức tạp nằm trong hai khía cạnh: thứ nhất là hình thái diễn tả của những bài thơ, có khả năng tạo ra những cảm nhận, suy đoán, giải thích, không chắc chắn. Người đọc có cảm giác mơ hồ, thú vị trong một số câu, nhưng không chắc đã lãnh hội toàn bộ.
Khía cạnh thứ hai ẩn phía sau hình thái diễn tả, đó là khả năng suy nghĩ của anh. Tôi thấy được sự sâu xa, thâm trầm, nỗ lực tìm ý nghĩa và giá trị trong các chi tiết của tâm lý và đời sống, tuy nhiên, dường như có điều gì ấm ức, kềm chế, chưa nói tận tâm can. Khiến cho chữ nghĩa đơn giản lại chứa đầy bóng tối.
Bất kỳ nhà thơ chân chính nào cũng vậy, họ sẽ phát triển qua nhiều ngõ ngách và chiều hướng theo thời gian. Thơ của họ già theo tuổi và bí mật theo tâm lý. Không ai có thể hiểu hết nội tâm của mình, thời gian, suy tư và trải nghiệm sẽ làm cho mỗi người nhìn thấy mình rõ hơn, nhưng không bao giờ hoàn toàn minh bạch. Thơ là tiếng nói giữa đơn giản và phức tạp về những gì u ám trong lòng người. Trên hành trình đó, nhà thơ Ocean Vương còn cả một chân trời rộng mở. Cũng như thơ của Robert Frost chất chứa những âm u thời đại của ông, thơ Ocean Vương chứa đựng âm u của thời đại chúng ta.
***
Thơ Tuyển
Nghệ Thuật Thơ như Nhà Sáng Tạo
Vì cánh bướm vàng
chập chờn trong bùn đen
là một từ vựng
bị vây khốn bởi ngôn ngữ.
Vì không ai khác
đang đến - & Tôi không còn
lý do.
Vì vậy Tôi tập trung
những nắm tro, đen như mực,
đóng chúng
vào xương tủy
vào hộp sọ dày
đủ để giữ
lời nguyền dịu dàng
của giấc mơ. Vâng, Tôi hướng về
lòng nhân từ -
nhưng chỉ đến gần
như xây một cái lồng
chung quanh trái tim. Những màn cửa chớp
qua đôi mắt. Vâng,
Tôi đã giúp đỡ
dù biết rằng,
để kéo dài phiến đất sét
thành năm lưỡi kiếm ánh sáng.
Tôi đã
quá sức. Vì tôi
cũng cần một nơi
để giữ bản thân. Vì vậy, tôi đã nhúng
ngón tay vào lại
lửa, tò mò mở
mặt dưới
cho đến khi vết thương rộng ra
vào cổ họng,
cho đến khi mọi chiếc lá lay động lóng lánh (*)
với chuyện đó
chúa thét lên kinh khủng
& Tôi đã hoàn tất
& đó là con người
Ghi:
Hầu hết những bài thơ trong tác phẩm: Time Is A Mother mang tính cao kỳ vì nhiều ẩn ý liên tục nối kết nhau. Những lời thơ và tứ thơ đề nghị nhiều ý nghĩa khác mà người đọc chỉ có thể cảm nhận riêng theo “sự hiểu biết đoán chừng.” Bất kỳ cách diễn tả nào, khi đã mang ngụ ý, nghĩa là tác giả không quả quyết, còn nghi ngờ, không rõ ràng, nhưng trung thực đề nghị ý nghĩ của mình. Phần còn lại, thuộc vào người đọc.
Ví dụ: Trong phần bàn luận của The Is Have It của Asian American Identity Poetry, số tháng Bảy/ tháng Tám, nhà văn Lawrence Minh Bùi Davis nhận xét một số ngụ ý của Ocean Vương trong bài thơ Ars Poetica as the Maker:
Trong “Luận Về Thủ Thuật” (Essay on Craft) Ocean Vương đề cập đến vấn đề bản sắc (I.D.) nhưng từ một góc độ khác biệt. Khi cân nhắc câu hỏi chúng ta là ai, anh ta hình dung sự sáng tạo của Chúa đối với con người:
Vì vậy, Tôi tập trung những nắm
tro, đen như mực, đóng chúng
vào xương tủy vào hộp sọ dày đủ để giữ
lời nguyền dịu dàng của giấc mơ.
Chúa của Vương tạo ra chúng ta không bằng bụi bình thường, mà bằng tro đen như mực. Vương gợi ý, Chúa tạo con người theo cách chúng ta tạo nghệ thuật – bằng mực, như thể tạo vật của Chúa là tranh vẽ hoặc bài thơ. Ý kiến khác thường buộc thắt ý tưởng này: Vương đang tạo lên vị Chúa mà anh tưởng tượng đã sinh ra chúng ta, phác họa Chúa bằng đường nét ngắn gọn như những nhát búa. Chúa của anh để dành cái miệng loài người cho sau cùng:
Vì Tôi,
cũng cần một nơi
để giữ bản thân. Vì vậy Tôi nhúng ngón tay vào lại
lửa, tò mò mở mặt dưới
cho đến khi vết thương rộng ra vào cổ họng,
cho đến khi mọi chiếc lá lay động lóng lánh (*) với chuyện này
chúa thét lên kinh khủng
& Tôi đã hoàn tất & đó là con người.
Quan điểm cho rằng Chúa thiết kế cổ họng con người một cách rõ ràng để giữ anh ta, gợi ý con người tạo ra Chúa thông qua lời nói của họ – giống như Vương đã làm trong bài thơ.
Bài phát biểu của chính nhà thơ trở nên đậm đặc đầy mơ hồ khi anh ta đi đến kết luận. “Mọi chiếc lá đều lay động lóng lánh / với chuyện này …” gợi ý một khoảnh khắc của quyền lực thần thánh. Tuy nhiên, dòng thơ cho thấy “tiếng thét kinh khủng” – không phải chính Chúa- truyền cảm sự chuyển động. Thay vì Chúa, con người gây ra những tác động như vậy, và bây giờ, Chúa nói, “Tôi đã hoàn tất”. Xong việc sáng tạo con người, hoặc xong việc một cách tổng quát? bây giờ, con người có thể tạo ra Chúa, và bắt chước sự ảnh hưởng của ngài, Chúa đã biến mất rồi sao? Trong khi chúng ta hoang mang, Vương kết thúc bài thơ: “& đó là con người.” Có lẽ những câu hỏi không chắc chắn này là thuộc về loài người – đúng thật là con người. (Lawrence Minh Bùi Davis.)
Ghi:
(*) Tôi không hiểu rõ ý nghĩa của từ “silver” trong mạch văn này. Đành để người đọc tự chiêm nghiệm.
Ars Poetica as the Maker
(And God saw the light and it was good. Cựu Ước 1:4.)
Because the butterfly's yellow wing
flickering in black mud
was a word
stranded by its language.
Because no one else
was coming - & I ran
out of reasons.
So I gathered fistuls
of ash, dark as ink,
hammered them
into marrow, into
a skull thick
enough to keep
the gentle curse
of dream. Yes, I aimed
for mercy –
but came only close
as building a cage
around the heart. Shutters
over the eyes. Yes,
I gave it hands,
despite knowing
that to stretch that clay slab
Into five blades of light,
I would go
too far. Because I, too
need a place
to hold me. So I dipped
my fingers back
into the fire, pried open
the lower face
until the would widened
into a throat,
until every leaf shook silver
with that god
-awful scream
& I was done.
& it was human.
***
Con Bò Đực
Nó đứng một mình sau sân, đầy bóng tối
đêm màu tím phủ chung quanh. Không còn chọn lựa. Tôi mở cửa & bước ra.
Gió rung cành lá.
Nó nhìn tôi bằng đôi mắt xanh như đèn dầu lửa Tôi hỏi, “mày muốn cái gì?”
quên mất không nói cùng ngôn ngữ. Nó tiếp tục thở để sống còn.
Tôi là cậu bé – là kẻ sát sinh từ ấu thơ như tất cả sát thủ, chúa vẫn bất động. Chúa ơi, nó vẫn đứng kia.
Như cầu nguyện điều gì cho kẻ thù từ người không có miệng.
Chiếc đèn xanh chập chờn. Tôi không muốn.
Không muốn nó đẹp –
nhưng đẹp vẫn còn hơn nỗi đau
dù dịu dàng đủ để kéo dài,
Tôi đưa tay sờ - không phải con bò –
mà chiều sâu thẳm.
Không phải câu trả lời
mà lối vào hình dạng con thú. Giống như tôi.
The Bull
He stood alone in the backyard, so dark
the night purple around him.
I had no choice. I open the door
& stepped out. Wind
in the branches. He watched me with kerosene
blue eyes. What do you want? I asked, forgetting I had
no language. He kept breathing,
to stay alive. I was a boy -
which meant I was a murderer
of my childhood. & like all murderers, my god
was stillness. My god, he was still
there. Like something prayed foe
by a man with no mouth. The green-blue lamp
swirled in its socket. I didn't
want him. I didn't want him to
be beautiful - but needing beauty
to be more than hurt gentle
enough to hold, I
reached for him. I reached - not the bull -
but the depths. Not an answer but
an entrance the shape of
an animal. Like me.
***
Lý Thuyết Về Tuyết
Đây là ngày tuyệt vời nhất trong đời
Tôi chưa giết một thứ gì kể từ năm 2006
Bóng tối ngoài kia, ướt như trẻ sơ sinh
Tôi gấp góc một trang sách
& lập tức nghĩ đến thủ dâm
Có cách nào khác để trở lại bản thân
ngoại trừ gấp trang giấy
để đánh dấu ghi nhớ phần hay
Trên truyền hình đất nước khác đang bốc lửa
Những gì đã mất
là những gì chúng ta có mãi mãi
Trên bãi tuyết, thấy đường viền hình dạng mẹ tôi
Hứa với con, mẹ không biến mất nữa.
Mẹ nằm đó một lúc, suy nghĩ lại
Nhà từng nhà tắt đèn
Tôi nằm lên hình dạng mẹ
để cảm giác bà còn sống
Nằm với nhau chúng tôi tạo ra hình thiên thần
Giống một hình hài bị bão tuyết phá hủy
Từ đó tôi chưa hề giết một thứ gì
Snow Theory
This is the best day ever
I haven't killed a thing since 2006
The darkness out there, wet as a newborn
I dog-eared the book & immediately
Thought of masturbation
How else do we return to ourselves but to fold
The page so it points to the good part
Another country burning on TV
What we'll always have is something we lost
In the snow, the dry outline of my mother
Promise me you won't vanish again. I said
She lay there awhile, thinking it over
One by one the house turned off their lights
I lay down over her outline, to keep her true
Together we made an angel
It looked like something being destroyed in blizzard
I haven't killed a thing since
***
Không Có Gì
(Ghi: Bài thơ này viết liên lục không xuống hàng. Ý tứ thơ tới tấp nối vào nhau, không dễ cảm nhận những ẩn ý đàng sau ngôn từ. Bài thơ nhiều bóng tối. Tôi xin xuống hàng, tạo ra những điểm dừng, điểm nghỉ, có thể phù hợp với người Việt hơn và giúp người đọc dễ theo dõi.)
Người đàn ông này và tôi đang xúc tuyết, lưng lui lại gần nhau hơn dọc theo đường lái xe vào nhà. Trong tĩnh lặng, mỗi cánh hoa tuyết đậu lên áo mang theo hơi thở. Tôi từng khóc trong lối viết không ai đọc. Họ nói, thật là đùa với lửa. Họ hét lớn, khói bốc ra từ miệng, này cậu trẻ, thứ này kiếm không ra tiền. Nhưng đám ma nói lời trêu ghẹo khi là người một nhà.
Người đàn ông này và tôi lấy bớt sức nặng của những gì sẽ biến mất, rồi bỏ sang một bên, cho trống chỗ. Có quá nhiều chỗ trống trong mỗi người có thể chứa nhiều chúng ta. Này anh du khách, chỉ cách nhau gang tấc nhưng không bao giờ đến đây. Ở bên kia, anh có đủ ấm không? Anh có phải là “anh” nơi đang ở không? Điều gì đó phải xảy ra từ chuyện này.
Trong một căn phòng tại ngôi nhà người đàn ông và tôi ở chung, một ổ bánh lúa mạch đen đang tự phồng lên quá độ, càng lớn càng nhạt màu vì hấp thụ thế giới nhiều hơn. Theo con người, chúng ta gọi là “Lão hóa”. Theo bánh mì, gọi là “Bằng chứng”. Giờ đây, chúng tôi đã ngoài 30 tuổi, tôi cán bột chỉ một giờ trước đây, đẩy kính đeo mắt lên sóng mũi bằng bàn tay lấm bột trong khi đọc đi đọc lại công thức viết tay nguệch ngoạc do bà nội người đàn ông cho tôi.
Bà chạy trốn Stalin, mua vé từ Vilnius đến Dresden nhưng không biết sẽ ngừng lại ở Auschwitz (dù sao cũng là một thị trấn,) chuyện đó xảy ra, nơi bà và em trai bị người lính yêu cầu xuống xe rồi thì thầm, “tiếp tục đi”, “tiếp tục đi”, như đứa con trai dẫn mẹ qua đồng lúa mì ban đêm. Làm thế nào bà chen lấn giữa rừng áo hỗn loạn, làm thế nào giữa những lối đi giăng dây kẽm gai. Khói từ miệng thở ra khi chúng tôi cúi xuống, xúc lên trong im lặng, buổi sáng trong veo như trong quả cầu tuyết. Làm sao chúng ta biết, chính nạn đói, không phải con người, sống sót dù ngôi nhà đầy bánh mì?
Ông đổ một bao muối xuống mặt đường. Từ nơi tôi đứng thấy như ánh sáng từ ông trào ra, giống tia nắng đầy bụi tìm thấy trong bàn tay bà nội khi trở lại con tàu, em trai đứng cạnh bên, khói tàu thổi tràn qua mặt, kéo nhanh vào rừng thông, cuốn dạt qua đồng cỏ, những ngôi nhà trống có nhiều căn phòng. Người đàn ông ôm bụng như bị bắn trúng, ánh sáng trào ra khỏi ông, ý tôi nói là anh. Vì điều gì đó phải xảy ra từ chuyện này.
Khi người lính hỏi bà nội, có phải là dân Do Thái không? Bà lắc đầu, một nửa nói dối, rồi lấy trong túi một ổ bánh, nướng đêm hôm qua, nhét vào túi trước ngực người lính canh. Bà không quay nhìn lại khi con tàu chở bà đi, mới mười bảy tuổi, đến nơi hiện giờ tôi đang đứng, vào ngày Chủ Nhật ở Florence, Massachusetts.
Liếc nhìn nét viết nguệch ngoạc của bà nội: rây bột mì, tiếp theo, đánh trứng cho đến khi thấy màu vàng tươi.
Chuyến tàu sẽ đến Dresden vài ngày trước khi bầu trời lấp đầy bom nổ. Đầy khói. Một viên đạn hoặc một mảnh vỏ bom, không thể tìm thấy bà. Người em trai nằm dưới đống gạch đá, tên anh khắp nơi bên ngoài bà như tuyết rơi trên mặt anh bốn mươi năm sau, ngày 2 tháng 12 năm 1984, trong khi người mẹ mang anh, chỉ sống được ba giờ, vài bước đến chiếc xe tải nhỏ nơi bà nội, bây giờ đã sáu mươi, che đầu anh bằng tên người em trai. Bà nói, Peter! Peter! Peter! như thể người chết có thể gọi sống lại từ dưới đống gạch đá thành những bộ xương mới đầy kinh ngạc.
Tuyết bắt đầu rơi trở lại, phủ trắng đường vào nhà như thể không có gì xảy ra. Ôi, đời sống như viên đạn, cố ý làm người thương tâm. Sinh ra đời đi theo đường một chiều, hướng tới mọi thứ đang sống. Bước vào thế giới chưa bao giờ yêu cầu rồi chọn một nơi mong muốn chấm dứt – chúng ta thực sự hiểu biết phần nào của chiến tranh?
Thật ấm áp trong ngôi nhà, nơi anh và tôi sẽ chết. Rồi, hãy để bài thơ trong một phòng riêng. Hãy để nó lớn đủ cho mọi người, ngay cả những hồn ma trỗi dậy từ chiếc bánh mì mà chúng ta xé ra để xem những gì chúng ta làm từ nhau. Tôi biết, chúng ta càng ngày càng xa nhau, không hạnh phúc nhưng đầy một nửa. Việc dọn tuyết và nướng bánh không sửa chữa được chuyện này. Tôi biết, khi tôi với tay qua bàn để phủi lớp băng đóng trên râu anh, nó chỉ còn là nước. Không có gì, anh nói rồi cười lần đầu tiên sau nhiều tuần. Thực sự không có gì. Tôi tin anh. đáng lẽ, không nên, như tôi tin.
Nothing
We are shoveling snow, this man and I, our backs coming closer along the drive. It’s so quiet every flake on my coat has a life. I used to cry in a genre no one read. What a joke, they said, on fire. There’s no money in it, son, they shouted, smoke leaking from their mouths. But ghosts say funny things when they’re family. This man and I, we take the weight of what will vanish anyway and move it aside, making space. There is so much room in a person there should be more of us in here. Traveler who is inches away but never here, are you warm where you are? Are you you where you are? Something must come of this. In one of the rooms in the house the man and I share, a loaf of rye is rising out of itself, growing lighter as it takes up more of the world. In humans, we call this Aging. In bread, we call it Proof. We’re in our thirties now and I rolled the dough just an hour ago, pushing my glasses up my nose with a flour- dusted palm as I read, reread, the hand-scrawled recipe given me by the man’s grandmother, the one who, fleeing Stalin, bought a ticket from Vilnius to Dresden without thinking it would stop, it so happened, in Auschwitz (it was a town after all), where she and her brother were asked to get off by soldiers who whispered, keep moving, keep moving like sons leading their mothers through wheat fields in the night. How she passed through huddled coats, how some were herded down barb-wired lanes. The smoke from our mouths rising as the man and I bend and lift, in silence, the morning clear as one inside a snow globe. How can we know, with a house full of bread, that it’s hunger, not people, that survives? He pours a bag of salt over the pavement. From where I’m standing it looks like light is spilling out of him, like the dusty sunray that found his grandmother’s hands as she got back on the train, her brother at her side, smoke from the engine blown across the faces outside, which soon fall bach to pine forests, washed pastures, empty houses with full rooms. The man clutches his stomach as if shot, the light floods out of him, I mean you. Because something must come of this. When the guard asked your grandmother if she was Jewish, she shook her head, half-lying, then took from her bag a roll, baked the night before, tucked it in the guard’s chest pocket. She didn’t look back as the train carried her, newly seventeen, toward where I now stand, on a Sunday in Florence, Massachusetts, squinting at her faded scrawl: sift flour, then beat eggs until happy-yellow. The train will reach Dresden days before the sky is filled with firebombers. More smoke. A bullet or shrapnel, failing to find her. The brother under rubble, his name everywhere outside her like the snow falling on your face forty years later, on December 2, 1984, while your mother carries you, alive only three hours, the few steps to the mini-van where your grandmother, sixty now, crowns your head with her brother’s name. Peter! she says, Peter! Peter! as if the dead could be called back from rubble into new, stunned bones. The snow has started up again, whitening the path as though nothing happened. Oh, to live like a bullet, to touch people with such intention. To be born going one way, toward everything alive. To walk into the world you never asked for and choose a place where your wanting ends—which part of war do we owe such knowledge? It’s warm in this house where we will die, you and I. Let the stanza be one room, then. Let it be big enough for everyone, even the ghosts rising now from this bread we tear open to see what we’ve made of each other. I know, we’ve been growing further apart, unhappy but half full. That clearing snow and baking bread will not fix this. I know, too, as I reach across the table to brush the leftover ice from your beard, that it’s already water. It’s nothing, you say, laughing for the first time in weeks. It’s really nothing. And I believe you. I shouldn’t, but I do.
.
Ngu Yên dịch và giới thiệu
Từ “Tuyển tập Thơ thế giới. Cuốn 2. Ngu Yên”.
Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhocnghethuat/tho/oceanvuongvatacpham.html