Nguyễn Hiền


Hòa Lan thiếu thuốc trầm trọng, vì sao?

   

Những năm gần đây, nạn thiếu thuốc ở Hòa Lan đã trở thành một căn bệnh trầm kha và dường như ngày càng trầm trọng thêm. Từ cuối 2023/đầu 2024 các nhà thuốc đã phải chật vật xoay sở với hy vọng tìm được thuốc giao cho những bệnh nhân, nhất là những người đang phải điều trị dài hạn cho những bệnh chỉ có vài loại thuốc có tác dụng.

Những tháng đầu năm 2024 xảy ra nạn thiếu thuốc Salbutamol (làm giãn nở khí quản, trị hen suyễn) một cách nghiêm trọng, tình trạng khan hiếm tiếp tục cho tới năm 2025 vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Rồi sau đó, cũng trong năm 2024, là nạn thiếu một thứ thuốc trị thống phong (gout/jicht). Và rồi thuốc trị đau nhức khá thông thường – Ibuprofen – cùng những loại thuốc uống kèm theo để ngừa tác hại trên bao tử cũng cạn. Một loại thuốc sinh học thường được dùng trong việc điều trị phong thấp và để trị một bệnh đường ruột, một loại thuốc kháng sinh nước cho trẻ em… cũng làm nhức đầu các nhà thuốc và các bác sĩ trong bệnh viện vì họ phải thay thuốc khác.

Theo số liệu công bố đầu năm 2025, trong năm 2024 đã có hơn 4,5 triệu người phải đối mặt với nạn có toa bác sĩ, hoặc muốn mua, mà không có thuốc (ngay trong ngày đó). Dân số Hòa Lan hiện giờ gần 18 triệu, tức là trong năm vừa qua, cứ 4 người thì có 1 người gặp nạn thiếu thuốc. Danh sách thuốc ‘không có ngay’ trong năm 2024 là 1563 mặt hàng. Tuy vậy danh sách này còn ít hơn trong năm cao điểm 2023, với 2293 món.

Nếu nhìn về quá khứ xa hơn thì sẽ thấy nạn khan thuốc đã có từ chục năm trước, và hiện đang có chiều hướng đi lên, nếu không có hướng giải quyết tận gốc. Theo báo cáo của Hội Dược sĩ Hòa Lan công bố năm 2014 thì năm 2013 có 426 thứ thuốc được ghi nhận là khan hiếm. Như vậy trong 10 năm, tình trạng khan thuốc đã tăng gấp 5 lần.

Nhiều thứ thuốc trong số này nằm trong danh sách ‘cần gấp’, có nghĩa là nếu không có thì sinh mạng có thể bị đe dọa trong thời gian tính bằng ngày, hoặc bằng giờ. Năm 2024 con số những thuốc ‘cần gấp’ này là 193 mặt hàng, hai trong những thuốc này là salbutamol cho bệnh nhân bị suyễn và prednisolon cho khoảng 580.000 bệnh nhân đang điều trị một số bệnh, trong đó phải kể đến những người đã được thay nội tạng, họ bắt buộc phải dùng thuốc này hàng ngày. Trong danh sách thuốc thiếu hụt năm 2024 có 669 thuốc ‘thực cần thiết’, có nghĩa là nếu không có thuốc dùng trong khoảng từ 3 ngày tới 3 tháng sẽ có nguy cơ bệnh trở nặng thêm hoặc có thể đưa tới tử vong. Điều đáng lưu ý là trong số này có hai thứ thuốc trị đau nhức bán không cần toa là Ibuprofen và Diclofenac, cùng thuốc Omeprazol để uống kèm, ngừa tác hại trên bao tử.

Đau lòng là có những trẻ em bị chứng ói mửa mà không có thuốc cho chúng, đành phải dùng thứ thuốc chống ói vốn dành cho bệnh nhân đang điều trị ung thư.

Trong trường hợp không thể đổi thứ thuốc khác để có ngay, bệnh nhân được ghi nhận, nhà thuốc hoặc bệnh viện sẽ tìm nơi nào có để lấy về và thông báo cho họ biết để tới nhận. Trong một số ít trường hợp – hoặc trong trường hợp thuốc không cần toa, bệnh nhân phải sang nước láng giềng Bỉ hoặc Đức để mua.

Vì sao có hiện tượng trên. Dưới đây là một số nguyên nhân:

Nguyên nhân trên toàn cầu

1. Sản xuất nguyên vật liệu cho ngành bào chế dược phẩm bị xáo trộn do tập trung và chuyển dịch

Các quốc gia Tây Âu và Hoa Kỳ từ hậu bán thế kỷ 20 đã liên tiếp siết chặt nhiều luật lệ: luật về sản xuất hóa chất độc hại (cho con người và cho môi trường), luật về chất thải và khí thải, luật an toàn lao động v.v. đã đưa tới kết quả là các cơ sở sản xuất phải cải thiện liên tục về nhà xưởng, về trang thiết bị, máy móc…, mà những cải thiện quy mô thường đưa tới đòi hỏi phải thử nghiệm lại quy trình sản xuất và có khi phải điều chỉnh lại hồ sơ đăng ký sản xuất dược phẩm. Cộng thêm chi phí lao động ngày một cao. Một cách tương đối đơn giản để giảm chi phí là khuếch trương cơ sở bằng cách mua lại công ty khác và sáp nhập chung, hoặc mở rộng nhà máy, trên thực tế khó thực hiện do những thủ tục rườm rà và những bó buộc của các luật địa phương về xây cất, về hạ tầng cơ sở, về quy hoạch thành phố… Mỗi khi có kế hoạch mở rộng qui mô nhà máy hoặc xây một cơ sở sản xuất lớn, lại thấy xuất hiện một làn sóng biểu tình phản đối, khiếu nại, thưa kiện v.v., có khi kéo dài hàng cả chục năm mới dàn xếp xong.

Trong khi đó, các quốc gia có lương công nhân thấp, điển hình là Ấn Độ và Trung Quốc, sẵn sàng nhận chuyển giao công nghệ sản xuất hóa chất và nguyên vật liệu từ Tây phương. Chính phủ các quốc gia này không ngại dùng biện pháp mạnh để thực hiện dự án xây cất, do quan điểm về ô nhiễm khác Tây phương, và một phần cũng do sự chia chác quyền lợi có hệ thống.

Do thế giới đã sống yên bình từ 1950 – các vụ tranh chấp, chiến tranh sau thế chiến 2 phần lớn xảy ra ở Phi châu và Nam Mỹ châu không gây ảnh hưởng tới sản xuất hóa chất, nên trong thời đại toàn cầu hóa Hoa Kỳ và các quốc gia châu Âu đã dần dần chuyển công nghệ sản xuất những mặt hóa chất gây nhiều rắc rối về luật lệ sang Trung Quốc và Ấn Độ – và hiện nay là cả Indonesia, để tránh thảm họa ô nhiễm môi trường trong nước. Nhưng đời không yên bình mãi.

2. Dân số trên địa cầu gia tăng và trình độ dân chúng cũng được nâng cao

Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia chiếm gần nửa số dân trên thế giới. Khi mức sống người dân được cải thiện, họ có dịp tiếp cận những kiến thức khoa học mới, họ có lợi tức khá hơn và vì vậy họ có nhiều đòi hỏi hơn. Nhu cầu dùng tân dược ngày càng cao, nhất là ở giới trẻ. Các nhà sản xuất hóa chất và dược phẩm ở 2 quốc gia này bắt đầu ngán ngẩm về những đòi hỏi ngày càng cao (và có phần vô lý theo cách nhìn của họ) của các phái đoàn thanh tra thường kỳ do Âu châu và Hoa Kỳ cử tới thăm các cơ sở sản xuất hóa chất mà họ đặt mua. Cân nhắc lợi và hại, Trung Quốc và Ấn Độ trong một số trường hợp đã ngưng tái ký hợp đồng cung cấp cho Hoa Kỳ và Âu châu để dồn sức vào thị trường nội địa, vì thực ra họ cũng không có đủ điều kiện để thỏa mãn hoàn toàn các yêu cầu của Tây phương.

3. Cung cách trong chuỗi sản xuất đã hoàn toàn khác xưa và không thể thích ứng nhanh chóng với một biến động bất chợt

Do toàn cầu hóa đã thành phổ quát trong nhiều thập niên qua, với những hiệp ước thương mại được ký kết giữa các khối quyền lực hoặc giữa các quốc gia đơn lẻ, rồi những hợp đồng sản xuất và cung ứng được thành hình trong nội địa, người ta đinh ninh là qua những hợp đồng ràng buộc như thế, chuỗi cung ứng sản phẩm gồm các chặng ‘đặt hàng-sản xuất-giao hàng-phân phối’ sẽ được thực hiện trôi chảy. Ngoài ra, các phương tiện giao thông và truyền tin được cải tiến đã gia tăng tốc độ dời chỗ của sản phẩm (từ nơi cung cấp, qua nơi chế biến bán thành phẩm, rồi tới bước thành hình sản phẩm, giao hàng cho nơi đã đặt mua để phân phối tới điểm tiêu thụ). Thêm vào đó, hàng và giấy tờ đi theo hai con đường riêng, không cần chờ nhau như xưa. Rồi tới sự lan rộng của của ngành bảo hiểm đến mức hầu như tất cả mọi rủi ro trong hoạt động đều được bảo hiểm chặt chẽ. Trách nhiệm và thiệt hại từ nay sẽ đặt phần lớn lên vai các công ty bảo hiểm và các luật gia. Mọi chuyện sẽ như dòng sông êm đềm cứ thế mà trôi. Thế giới đã yên lòng với cách sắp xếp này, đúng ra là họ yên lòng với ý tưởng là mình có thể đổ trách nhiệm cho nơi khác, và cái ‘nơi khác đó’ cuối cùng lại đẩy sang cho các công ty bảo hiểm. Mà chính các công ty bảo hiểm lại thuê các ‘tổ hợp bảo hiểm quốc tế’ bảo hiểm cho hoạt động của họ.

Chính vì các mối đan xen nhau trong sản xuất – hoặc nói chung, trong xã hội, theo kiểu đó đã tạo thành một mạng lưới phức tạp. Phức tạp nhưng thực chất không bền vững.

Vì sao không bền vững?

Vì quá tin tưởng vào hệ thống ràng buộc vững chắc ‘qua hợp đồng’, và dưới áp lực thường xuyên của các nhà đầu tư đòi hỏi liên tục phải giảm chi phí, các công ty nhận ra một điều: giảm chi phí tồn kho là một lối thoát thần kỳ. Tiết giảm được một khoản chi phí khổng lồ để duy trì nhà kho to rộng (mặt bằng nhỏ hơn, tốn ít năng lượng hơn, tiết kiệm được phần lớn khoản tiền lời phải trả cho vốn vay mượn để xây kho hàng lớn…), họ có thể dồn vốn vào việc phát triển hoạt động. Nhưng làm sao để việc cung ứng đơn đặt hàng được tiến hành suôn sẻ mà không lo thiếu hàng?

Nhờ vào các chương trình vi tính ngày càng cải tiến và có tốc độ làm việc cực cao, các công ty có thể cho máy tự động lên chương trình từ A tới Z một cách thật chi tiết. Mô hình này đã được thử trên thực tế từ gần nửa thế kỷ trước, như trong các ngành đóng đồ gỗ hoặc công ty sản xuất xe hơi: các đơn đặt hàng được tập trung, phân thành nhóm và khi có đủ số lượng nào đó, nó sẽ được chuyển cho nơi sản xuất, và trong chớp mắt, máy đã tách rời món hàng ra thành từng bộ phận, lập đơn đặt hàng tại nơi cung cấp và đồng thời lên kế hoạch tại nơi lắp ráp.

Với kinh nghiệm thâu thập được, ngành sản xuất dược phẩm cũng theo gót. Hiện nay, sự liên lạc giữa các chặng trong quy trình sản xuất đã chặt chẽ tới mức không tưởng, trong ngành sản xuất có thuật ngữ JIT (Just In Time – đúng lúc), có nghĩa là trên thực tế, chỉ cần tồn kho một lượng hàng hóa rất là nhỏ, vì mọi thứ sẽ được giao đúng theo hẹn. Các siêu thị, nhà thuốc… được giao hàng nhiều lần mỗi ngày.

Nhưng sự vận hành này ẩn chứa nhiều rủi ro. Chỉ cần một khâu gặp trở ngại, là cả dây chuyền phải ngưng. Siêu thị có thể không có sữa bán vài ngày, nhưng nhà thuốc không làm như vậy được. Trong thập niên qua, đã có nhiều biến động, tưởng nhỏ nhưng có tác hại lớn, như:

Trong bất cứ bản hợp đồng nào đều có mục ‘trong trường hợp bất khả kháng’ là một mục thường được nêu ra để tránh bồi thường. Còn bên đặt hàng khi đó muốn mua nơi khác cũng không được, vì sản xuất đã tập trung vào các đại công ty, họ đã lên kế hoạch sản xuất chặt chẽ, chen vào coi như không thể được, phải nối đuôi chờ tới phiên. Về dược phẩm, còn có một rào cản nữa, đó là trong hồ sơ đăng ký sản xuất có ghi tên đích xác các công ty cung cấp nguyên vật liệu, với hồ sơ chứng minh là đã (mướn người) tới thẩm định nhà máy và chấp thuận, tức là không được phép tự tìm một nhà sản xuất không có ghi trong hồ sơ.

* Ghi chú: Trong thời kỳ thế giới biến động hiện nay, nhiều công ty đã thay phương cách JIT bằng JIC (Just In Case – dành cho trường hợp), tức là biện pháp phòng xa để tránh thiếu hụt nguồn cung, trong đó có bao gồm các tiên đoán về tầm ảnh hưởng của các biến cố lớn trên thế giới (có thể nhờ trí tuệ nhân tạo giúp), ký thêm giao kèo phụ với một cơ sở thứ 2 để có thể uyển chuyển khi cơ sở chính không thể hoạt động được (nhưng nếu muốn vậy thì hàng năm phải đặt một số hàng tượng trưng nơi cơ sở phụ, với giá cao để ‘giữ chỗ’), nâng cao mức tồn kho dự trữ và điều chỉnh mức này theo các tiên đoán trên v.v..

Nguyên nhân đặc thù của Hòa Lan

1. Mạng lưới chăm sóc sức khỏe ở Hòa Lan

Do dân số không đông, và cách đối phó với bệnh (gần một nửa số bệnh nhân đi khám bác sĩ chỉ nhận được lời khuyên), Hòa Lan từ xưa tới giờ rất thường gặp khó khăn trong công nghệ sản xuất dược phẩm, vì sản xuất nội địa là quy mô nhỏ, nếu đặt gia công sản xuất ở nước khác cũng phải chịu giá cao. Cho tới thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, giá thuốc ở Hòa Lan cao hơn giá thuốc ở các nước khác trong Âu châu khoảng 20%. Năm 1996, bà Els Borst, Bộ trưởng Chăm sóc Sức khỏe, An sinh và Thể thao, đã đề ra một chính sách độc đáo đã tức thời kéo giá thuốc xuống. Với bộ Luật về Giá Dược Phẩm, các thuốc được chia thành từng nhóm, giá thuốc được bồi hoàn tối đa của mỗi nhóm sẽ được chính phủ ấn định dựa trên giá trung bình của 4 quốc gia trong Âu châu (hiện giờ là Bỉ, Pháp, Na Uy và Vương Quốc Anh). Bệnh nhân có thể yêu cầu nhà thuốc giao thuốc khác cùng loại theo ý mình (cùng tên hoạt chất nhưng khác tên mặt hàng), nhưng phải tự trả số tiền sai biệt. Một số thuốc thuộc loại mua không cần toa không còn được công ty bảo hiểm sức khỏe bồi hoàn nữa, mặc dù có toa bác sĩ. Và hiện nay đã tiến thêm một bước, là các công ty bảo hiểm ký hợp đồng với các nhà thuốc và bệnh viện, tức là bảo hiểm y tế ở đâu thì sẽ được đi bệnh viện nào, và được cấp thuốc của công ty nào. Đi sai chỗ thì không được bồi hoàn đúng mức.

Đây là một cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các công ty bảo hiểm. Họ cố gắng ký những hợp đồng có lợi nhất với những cơ sở cung cấp thuốc. Nhưng nó cũng đã tạo ra sự mất quân bình trong mạng lưới phân phối thuốc. Dân chúng hoàn toàn mù tịt về những chi tiết lẽ ra họ cần biết, đại đa số theo cách ‘ở đâu yên đó’, số người đổi cty bảo hiểm sức khỏe thường nhìn vào số tiền chênh lệch họ phải đóng mỗi tháng. Nhưng khi thuốc khan hiếm, có thể nhà thuốc này có thuốc, mà nhà thuốc kia không có. Đó là trường hợp khan hiếm thuốc Prednisolon vào tháng 9/2024, khi một nhà máy cung cấp 2/3 nhu cầu Prednisolon ở Hòa Lan phải tạm dừng hoạt động.

2. Cấp phát thuốc tự động

Với những người bị bệnh mãn tính phải dùng thuốc trong một thời gian dài, nhà thuốc của họ có thể để cho hệ thống tự động cấp thuốc, thường là đủ dùng trong 3 tháng. Nếu nhận được cảnh báo mặt hàng nào khan hiếm, nhà thuốc có thể điều chỉnh để chỉ giao thuốc đủ dùng trong thời hạn ngắn hơn. Nhưng cách này cũng bị chỉ trích vì mỗi lần lấy thuốc, bệnh nhân phải trả tiền ‘giao thuốc’ gồm có những công tác lưu hồ sơ, kiểm soát thuốc và hướng dẫn. Chi phí này khoảng 12 euro cho mỗi món thuốc trong lần giao đầu tiên, và khoảng 6 euro cho mỗi món trong những lần sau.

Với những người được bệnh viện điều trị, khi xuất viện (hoặc khi đổi thuốc), nhiều bệnh nhân được cấp toa thuốc dài hạn, nhà thuốc sẽ giao 1 tháng thuốc để thử, và sau đó nếu thấy hạp sẽ được tiếp tục giao thêm với hệ thống cấp thuốc tự động.

Một câu hỏi được đặt ra trong cách thức này là: có cách quản lý nào tốt hơn trong phương cách ‘cấp phát thuốc tự động’ hiện nay không. Trên thực tế, những người dùng thuốc năm này qua tháng nọ sẽ có thuốc dư thừa (vì họ quên), trong khi hệ thống cấp phát tự động dựa hoàn toàn trên lý thuyết. Những bệnh nhân ung thư, những người cần đồ lót tiêu tiểu… khi qua đời thường để lại một đống thuốc và phụ tùng làm vệ sinh, có thể tái sử dụng được không? Vấn đề này sẽ được bàn ở cuối bài.

3. Giá thuốc quá rẻ ở Hòa Lan đã cản trở việc mua thuốc từ các đại công ty quốc tế

Từ khi Luật về Giá Thuốc được ban hành (1996) cho tới nay, chi phí cho thuốc men ở Hòa Lan đã tăng khá nhiều, cho dù đã có rất nhiều cố gắng kéo giá xuống. Chi phí thuốc ở Hòa Lan trong năm 2018 là 23,1 tỉ euro, 2023: 28,5 tỉ euro (Nguồn: Zorginstituut Nederland). Điểm lưu ý nơi đây là chi phí cho những loại thuốc ‘thật mắc tiền’ (thường là thuốc mới phát minh, chỉ dùng cho một số bệnh hiếm gặp) không tăng cao trong khoảng thời gian này, tuy đã có rất nhiều tiến bộ trong y khoa (năm 2018: 2,3 tỉ euro, năm 2023: 2,65 tỉ euro, nguồn: Zorginstituut Nederland).

Vì thuốc đã được chia thành nhóm với giá trần được qui định nên phần lớn những thuốc còn độc quyền có giá ở Hòa Lan coi như nằm trong mức trung bình của châu Âu. Thí dụ thuốc sinh học Humira (trị các bệnh tê thấp và một số bệnh thuộc hệ miễn nhiễm), một mặt hàng bán nằm trong top 5 trên thế giới, kể cả Hòa Lan, có giá không chênh lệch bao nhiêu so với các nước lân bang: Giá 1 liều 40mg ở Hòa Lan: 305€, Ý: 507€, Đức: 405€, Pháp: 240€. Trong khi đó giá Humira tại Hoa Kỳ là 3.216USD (= 3.100 €) – Số liệu 2023 theo báo cáo của TNS Bernie Sanders. Giá ở Nhật là 51.022 yen (= 316 €), ở Trung Quốc là 1.290 Nhân Dân Tệ (= 180€), theo báo cáo của Blomberg tháng 8/2023.

Nhưng với nhiều loại thuốc khác, các công ty có trụ sở ở Hòa Lan đã phải chịu nhiều thiệt thòi khi đặt làm (hoặc mua) thuốc, vì ‘kì kèo bớt một thêm hai’ và vì lượng (nguyên liệu hoặc thành phẩm) mua quá ít. Ngoài ra, về giá thuốc, có những chuyện người ngoài cuộc không ngờ. Hãy xem thí dụ sau đây:

Một ly café trong quán giá khoảng 3 euro, trong khi 1 hộp 30 viên Prednisolon 5mg (đang khan hiếm trầm trọng) giá chưa tới 1,5 euro. Đây là điều cực kỳ vô lý. Bạn có thể bảo là: với 1kg hóa chất Prednisolon họ có thể làm được tới hơn 6600 hộp, mỗi hộp 1,50 euro tức là bạn thu vào 10 ngàn euro. Viên thuốc nhỏ chút xíu, phần lớn là bao bì, cái hộp và tờ giấy hướng dẫn có giá không bao nhiêu (chừng 10 cent). Nhưng hãy xem một thí dụ khác: Paracetamol, thuốc giảm đau thông thường. Hộp 50 viên 500mg bán tại các tiệm drogist với giá trên dưới 1,50 euro/hộp. Với 1kg Paracetamol người ta làm ra được đúng 40 hộp. Nếu hoàn toàn không có thất thoát rơi vãi trong sản xuất thì chỉ thu được tối đa 60 euro. Cứ cho thuế Trị giá gia tăng (BTW) và tiền lời của nhà bán lẻ là 10%, thì giá họ mua vào là 55 euro. Trong số tiền này phải kể tới, ngoài tiền nguyên vật liệu, là tiền chuyên chở trong tất cả các chặng, tiền máy móc sản xuất và vô hộp, lương công nhân, tiền bao bì, chi phí cơ sở, chùi rửa máy móc, rồi chi phí kiểm định phẩm chất nguyên liệu và thành phẩm, tiền lời các đại lý phân phối được hưởng v.v…, thử nghĩ xem hãng sản xuất kiếm được bao nhiêu euro cho mỗi kilô Paracetamol?

Nếu bạn biết là giá Paracetamol do cty hóa chất Mallinckrodt (Hoa Kỳ) bán ra hiện nay là vào khoảng 8,5 USD/kg thì bạn thấy là: ừ, chắc làm được. Bạn tò mò dọ giá các nhà sản xuất hóa chất Trung Quốc và Ấn Độ? Họ sẽ cung cấp cho bạn giá khoảng 4-5 euro/kg, bảo đảm đạt tiêu chuẩn Hoa Kỳ và Âu châu. Nếu đem thử, sẽ hoàn toàn không thấy khác nhau giữa 2 thứ. Nếu bạn là nhà sản xuất thuốc Paracetamol, bạn sẽ mua chất này từ đâu? Câu trả lời không khó.

Đúng là không khó. Nhưng vì nó quá rẻ, nên ẩn chứa rất nhiều rủi ro. 80% chất khởi đầu để có thể tổng hợp thành hóa chất Paracetamol trên toàn thế giới xuất phát từ… Trung Quốc, vì nước nào cũng rất sợ ô nhiễm môi trường trong giai đoạn sơ chế này. Một phần ba được Trung Quốc giữ lại để tinh chế thành bột Paracetamol bán tiếp, 1/3 bán cho Ấn Độ, 1/3 còn lại bán cho các quốc gia khác. Sau khi tinh chế, Trung Quốc và Ấn Độ bán cho toàn thế giới để làm thành thuốc Paracetamol. Như vậy, chỉ cần Tập Cận Bình xiết chặt luật bảo vệ môi trường một chút, cũng đủ làm thế giới giành nhau viên thuốc tưởng như tầm thường này.

Các cách giải quyết nạn khan thuốc cấp thời hiện nay

Ở Hòa Lan, hầu hết bệnh nhân đã ghi tên ở một nhà thuốc. Luật chỉ quy định một cách mơ hồ là nhà thuốc có nhiệm vụ phải cung cấp một dịch vụ chăm sóc (cấp thuốc và hướng dẫn về thuốc) chu đáo. Trên lý thuyết, không giới hạn một người chỉ được đăng ký ở 1 nhà thuốc, nhưng đăng ký tại 1 nhà thuốc duy nhất có lợi điểm là hồ sơ thuốc men tập trung ở một nơi, đơn giản khi đi khám bệnh, chu đáo trong việc theo dõi để phát hiện những điều cần lưu ý bệnh nhân. Hiện nay, khi gặp tình trạng khan hiếm, nhà thuốc trước hết tự tìm xem có thuốc nào tương đương để thay thế, có thể qua bàn luận với bác sĩ trị liệu. Nếu cách này không giải quyết được, bệnh nhân có thể xin toa bác sĩ trên giấy và tự đi tìm. Nhà thuốc có thể tìm giúp qua những mạng thông tin nội bộ xem nơi nào còn, để tìm cách cho bệnh nhân có thuốc đó (tới lấy hoặc gởi tới). Trong một số trường hợp, nhà thuốc có thể biết trước khi nào có thuốc lại. Nếu ngắn, họ có thể hẹn với bệnh nhân sẽ thông báo khi có thuốc. Thường thì giải pháp này dễ nhất, vì phần lớn bệnh nhân đều còn một ít thuốc ở nhà.

Nếu thời gian chờ thuốc quá lâu, hoặc chưa biết tới bao lâu mới có thuốc lại, nhà thuốc đành nói lời xin lỗi, bệnh nhân có thể trở lại bác sĩ để trình bày tìm phương cách trị liệu khác.

Một số nhà thuốc và bệnh viện đã căn cứ vào tình hình cung cấp thuốc để giao thuốc ít lại cho bệnh nhân (bổ sung từng tháng thay vì mỗi 3 tháng). Tuy nhiên tâm lý bệnh nhân là ‘phải nắm chắc trong tay rồi tính sau’, bất mãn và cự nự xảy ra thường xuyên.

Một số ít bệnh nhân đã dùng toa thuốc trên giấy (bản quốc tế, tiếng Anh) để mua thuốc ở các nước lân cận và sau đó khai với bảo hiểm y tế. Có người bí lối đã dùng cách cầu cứu trên các mạng xã hội xem người nào còn thừa thuốc (phần lớn là những người dùng thuốc xịt để hạ cơn suyễn) thì nhường cho họ. Có những cái app của bệnh nhân đồng hoàn cảnh để họ có thể trao đổi thông tin và giúp nhau. Nhưng cũng có những người đặt mua thuốc qua mạng internet, rủi ro thì có, nhưng còn hơn không có.

Một số câu hỏi đặt ra từ người dân

1. Trong khi thuốc khan hiếm như vậy, nhưng nhà thuốc và bệnh viện vẫn nhận rất nhiều thuốc dư do bệnh nhân trả lại (vì đổi thuốc mới, vì qua đời…), tại sao nhà thuốc không nhập kho lại và bán ra, hoặc tặng cho bệnh nhân cần thuốc đó?

Đó là do trách nhiệm, và hơn nữa, do luật. Thuốc cấp hoặc bán cho bệnh nhân phải được kiểm định về phẩm chất. Không thể xét bằng mắt thường và kết luận nó vẫn còn tốt, mặc dù hộp còn nguyên tem dán và còn trong hạn sử dụng. Không ai biết trong thời gian trước đó hộp thuốc có được giữ đúng ở nhiệt độ qui định không. Và cũng không nhà thuốc nào dám bảo đảm thuốc trong hộp là thuốc thật, vì đã có nhiều trường hợp kẻ gian tráo thuốc giả bị phát giác. Tai nạn xảy ra do uống thuốc giả trong trường hợp này, ai chịu trách nhiệm? Nếu muốn đem kiểm phẩm chất, phải mở hộp, lấy mẫu thì cái hộp đó là ‘hộp đã mở’, chưa kể tiền kiểm định chắc chắn mắc hơn tiền thuốc.

Đó là chưa kể tới mục thanh toán chi phí: nếu nhận thuốc dư để rồi bán lại thì nhà thuốc cũng phải trả tiền cho người mang tới, và họ sẽ phải hoàn lại cho bảo hiểm sức khỏe?

Nhưng đây đúng là một đề nghị đứng đắn, cần cứu xét vì đó là một sự lãng phí rất lớn. Tuy nhiên, luật EU về ngăn ngừa thuốc giả cấm dược sĩ dùng lại thuốc đã được giao cho bệnh nhân. Các công ty sản xuất thuốc cũng không vui nếu thuốc được dùng lại, vì họ mất thu nhập. Hiện nay, với những thuốc ‘có giá trị’, trên hộp thuốc đã được thêm một số serie riêng cho từng hộp, với cái mã QR để người ta có thể theo dõi chi tiết của chính cái hộp thuốc đó (làm ngày nào, đi theo những chặng đường nào). Nhà sản xuất cũng có thể cho thêm vào trong mỗi hộp một cái chip ‘datalogger’ ghi nhận nhiệt độ, để qua máy đọc, có thể biết đích xác hộp thuốc được bảo quản ở nhiệt độ nào. Trung tâm Y khoa Radboudumc ở Nijmegen từ 2020 đã dùng cách này trong nội bộ 4 bệnh viện đồng ý hợp tác, để dùng lại những thuốc thật đắt tiền do bệnh nhân trả lại, họ cho biết đã dùng lại 228 thứ thuốc trị ung thư, với giá trung bình là 3000 euro mỗi hộp. Hiện nay trung tâm nay đang mở rộng phạm vi thực hiện kế hoạch lên 20 bệnh viện.

2. Nếu thuốc khan hiếm do Hòa Lan không được ưu tiên trong việc phân phối, tại sao không tăng mức giá ấn định để dễ mua vào hơn?

Mặt hàng khan hiếm thay đổi theo thời gian, nếu tăng mức giá tất cả để ‘hy vọng’ có ưu tiên khi khan hiếm thuốc thì chi phí dành cho y tế sẽ tăng quá mức chịu đựng của người dân. Ngoài ra, lý do chính trong nạn khan hiếm thuốc phần lớn là do mức tồn kho khắp nơi quá thấp, mà không nơi nào chịu tăng mức tồn kho, do cạnh tranh trong kinh doanh.

3. Trong tình trạng thiếu hụt nguy cấp, vì sao không có cách nào để có thể mua lại thuốc của những quốc gia có thể nhượng lại số thuốc của họ với một giá được thỏa thuận?

Nếu thiếu hụt do khan hiếm nguyên liệu thì đó là thiếu hụt trên diện rộng. Như thuốc xịt Salbutamol trị hen suyễn có thời khan hiếm trầm trọng vì giới chăn nuôi săn lùng chất này để làm ‘chất tạo nạc’ cho gia súc mặc dù thế giới từ 1997 đã cấm dùng trong chăn nuôi (Việt Nam trong năm 2015 đã xảy ra vụ scandal do một công ty dược phẩm nhập salbutamol với lý do để làm thuốc suyễn, nhưng lại lén tuồn ra cho giới chăn nuôi). Tuy nhiên, trong đợt khan hiếm salbutamol lần này người ta không tìm thấy bằng cớ nào chứng tỏ có bán lén số lượng lớn cho giới chăn nuôi.

Nếu thiếu hụt do nhà sản xuất gặp trở ngại không giao thuốc được thì đại lý phân phối dược phẩm có thể xin giấy phép cho nhập một số thuốc từ quốc gia khác. Nhưng theo luật, bao bì và tờ hướng dẫn phải có tiếng Hòa Lan, như vậy phải tháo hộp ra và vô hộp mới với tờ hướng dẫn có tiếng Hòa Lan đúng như đã ghi trong hồ sơ đăng ký. Chưa kể chi phí cao, cách này cần nhiều thời gian và có khi mua về rồi thì không còn thiếu hụt nữa, không thể tiêu thụ được.

4. Dược sĩ theo luật được phép tự bào chế thuốc, vì sao khi khan hiếm họ không tự mua nguyên vật liệu để làm?

Luật cho phép dược sĩ được phép tự bào chế thuốc, nhưng chỉ được phép làm cho 1 cá nhân và chỉ được phép làm khi trên thị trường không có thứ thuốc đó, với liều lượng bác sĩ ghi trong toa. Những thuốc này được làm ra với sự hiểu biết về bào chế của người dược sĩ, nó không có thành phần giống thuốc trên thị trường và nếu có sơ xuất thì chỉ có 1 cá nhân bị thiệt hại. Nếu làm hàng loạt, phải tuân theo hồ sơ sản xuất đã được đăng ký và phải tuân thủ đúng theo cách làm ghi trong hồ sơ, là điều không thể thực hiện được. Ngoài ra, làm thuốc theo kiểu thủ công có giá cao gấp hàng chục lần giá thị trường.

***

Tóm lại, vấn đề khan hiếm dược phẩm tại Hòa Lan phức tạp hơn nhiều người nghĩ, vì nó liên quan đến sức khỏe, và bị chi phối bởi nhiều luật lệ. Nhưng lý do chính vẫn là: để có thể kiếm được lợi nhuận, tấc cả các chu trình sản xuất hiện nay đã được tự động hóa và tiêu chuẩn hóa đến tối đa, nhưng chính vì vậy mà nó thiếu linh hoạt. Bộ máy này chỉ vận hành tốt khi mọi chuyện diễn tiến đúng theo như kế hoạch. Trong khi đó tình hình thế giới đang trở nên phức tạp và sôi động. Nạn khan hiếm thuốc trên thực tế đã làm các nhân viên nhà thuốc phải bỏ thêm rất nhiều công sức và thời gian để giải quyết. Còn sự bực mình của bệnh nhân đối với nhân viên nhà thuốc ngày càng tăng.

   

Nguyễn Hiền

 

 

Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhoaxahoi/xahoi/hoalanthieuthuoc.html


Cái Đình - 2025