Nguyễn Văn Chữ
Phần Lan Hóa: Kịch Bản Việt Nam Có Thể Phải Ứng Xử
1. Đặt Vấn Đề
Á Châu Thái Bình Dương là khu vực rất quan trọng. Biển Đông có độ sâu nơi mà Trung Cộng có thể dấu tàu ngầm. Tại Biển Đông có thể triển khai nhiều động tác kinh tế, ngoại giao và quân sự trong khu vực. Trong sự tranh giành quốc tế này Việt Nam, mặc dù tuyên bố theo đuổi chính sách “bốn không”, sẽ không tránh khỏi nhiều sức ép từ nhiều phía.
Trong khi đó, mặc dù Mỹ đang là một siêu cường lãnh đạo thế giới nhưng, trong các thập niên qua, dường như Mỹ theo đuổi chính sách ngoại giao mang bản chất trao đổi để thỏa mãn những mục tiêu của từng giai đoạn. Tiêu biểu cho chính sách ngoại giao giai đoạn này là cách hành xử của chính phủ Mỹ tại: A Phú Hãn, Iraq, Syria, Venezuela, Ukraine, Bắc Hàn, v.v… (Nguyen, Hiệp, và Lộc, 2021).
Một vấn đề phức tạp Mỹ-Trung và là nét đậm thực chất của cuộc “thương chiến” Mỹ- Trung không phải chỉ hạn hẹp đóng khung trong khía cạnh thương mại hay kinh tế. Định kiến cho rằng cuộc tranh chấp Mỹ-Trung đặt trọng tâm vào ý thức hệ xung khắc và dị biệt giữa hai quốc gia tư bản và cộng sản cũng không phản ảnh đúng và xúc tích đủ về các điều kiện địa lý chính trị hay địa lý chiến lược. Đương nhiên, chiều hướng của cuộc tranh chấp nếu sự tranh giành còn tiếp diễn, hay cách mà cuộc thương chiến Mỹ- Trung sẽ giảm nhiệt, hoặc tạm chấm dứt cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến định hình chính sách ngoại giao cho Việt Nam.
Do đó, trừ khi Trung Cộng bị đổ vỡ, vấn đề Việt Nam có thể được giải quyết dựa trên những thỏa thuận, cam kết và bảo đảm từ một hội nghị quốc tế, trong đó thành phần tham dự là các quốc gia liên hệ trong vùng. Trên cương vị các quốc gia tiền tiến có ảnh hưởng và quyền lợi trong vùng, không ai có thể phủ nhận vai trò then chốt của Mỹ, Trung Cộng, khối Liên Âu, ASEAN, Ấn Độ; và cả Nga Sô, với vị trí yết hầu của hải/quân cảng Hải Sâm Uy (Vladivostok) là bằng chứng điển hình trên vùng Đông Bắc Á.
Theo thiển kiến của người viết, con đường dẫn tới cảnh huống mà Việt Nam phải đối mặt với vấn đề Phần Lan Hóa có thể là một trong các chính sách ngoại giao được đề nghị bởi một hay một nhóm của các thành phần tham dự hội nghị quốc tế trên. Việt Nam và Đài Loan cũng như toàn khối ASEAN là láng giềng của môt bá quyền Trung Cộng to lớn. Vị thế này đồng dạng với Phần Lan, toàn khối Đông Âu với đế quốc đầy tham vọng Liên Bang Sô Viết ngày xưa và Ukraine với Nga ngày nay. Giải pháp Phần Lan Hóa đã từng được đề nghị như là một giải pháp tiềm năng cho các quốc gia này.
Phần Lan Hóa là chính sách ngoại giao không được diễn tả phổ quát trên truyền thông và hàm chứa nhiều vấn đề có cả tích cực lẫn tiêu cực. Đồng thời, Forsberg và Pesu (2016) chỉ ra rằng các bình luận về chủ đề Phần Lan Hóa thường xem đề tài này như một lý tưởng trừu tượng mà không bàn luận gì về ảnh hưởng của Phần Lan Hóa đến chính Phần Lan. Một số học giả, Mouritzen (1988) chẳng hạn, thậm chí đã sử dụng khái niệm này để xây dựng một lý thuyết tổng quát về thích ứng chính trị (a generalised theory of political adaptation). Và, Eric Nordlinger (1996) cũng đã dùng khái niệm này để đưa ra lý thuyết Chủ Nghĩa Biệt Lập Tái Định Hình (Solotionism Reconfigured).
Có lẽ đây sẽ là một đôi điều để nhớ cho tương lai và ngày mai sẽ khác với hôm nay như Heraclitus đã nói “Không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông.”
Do đó, ở đây chỉ bàn một cách đại cương để thỏa mãn phần nào sự hiếu kỳ, qua những dòng sau đây người viết sẽ ngắn gọn duyệt qua. Nội dung bài viết gồm các phầu sau đây:
Phần Lan Hóa Và Các Vấn Đề Tiềm Ẩn:
Một Trong Các Kịch Bản Mà Một Lân Bang Của Trung Cộng, Như Việt Nam, Có Thể Phải Ứng Xử:
Thay lời kết. |
.
Xin được đi vào phần đầu:
2. Phần Lan Hóa Và Các Vấn Đề Tiềm Ẩn
2.1. Sơ lược các vấn đề Phần Lan Hóa
“Phần Lan Hóa” là thuật ngữ mô tả hiện tượng xảy ra khi một quốc gia nhỏ, do sống kề cận với một nước láng giềng lớn và hung hăng, nên phải chấp nhận giảm chủ quyền của mình, đặc biệt là trong lãnh vực chính sách đối ngoại, để duy trì độc lập một cách tương đối.
Gilley (2010) cho rằng thuật ngữ này bắt nguồn từ thỏa thuận năm 1948 của Phần Lan với Liên Bang Sô Viết, theo đó Helsinki đồng ý không tham gia các liên minh thách thức Mạc Tư Khoa hoặc làm đồng minh với bất kỳ quốc gia nào thách thức quyền lợi của Liên Bang Sô Viết. Đổi lại, Điện Cẩm Linh đồng ý duy trì quyền tự trị và tôn trọng hệ thống dân chủ của Phần Lan.
Kirchick (2014) cũng như Forsberg và Pesu (2016) lập luận rằng tại Phần Lan, thuật ngữ Phần Lan Hóa có xu hướng là một danh từ miệt thị (pejorative) vì những tác động tiêu cực của nó đối với chính trị trong nước Phần Lan. Chính quyền Phần Lan luôn biện minh cho chính sách ngoại giao Phần Lan Hóa, chẳng hạn nhà ngoại giao quá cố của Phần Lan, Max Jakobson (1980) phàn nàn rằng tên gọi “Phần Lan Hóa” là một “loại lén lút sát hại uy tín” (kind of character assassination) được triển khai “để biểu thị sự phục tùng siêu việt đối với sự thống trị của Liên Sô.”
Forsberg và Pesu (2016) chỉ ra rằng cũng có nhiều bình luận gia viện dẫn các lý do sau đây để kết luận rằng chính sách ngoại giao của Phần Lan là một thành công: quốc gia này đã bảo tồn hệ thống dân chủ, thịnh vượng về kinh tế, củng cố vị thế quốc tế của mình. Một số trong các bình luận gia này còn cho rằng, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, “bảo toàn (survival)” được nền dân chủ đã đủ để xem Phần Lan Hóa là thành công rồi. Và, ngày nay người Phần Lan có mức độ hạnh phúc, do họ tự đánh giá, cao nhất thế giới.
2.2. Nguyên nhân cho kịch bản Phần Lan Hóa mà một quốc gia như Việt Nam có thể phải đối mặt
Bảng 1: Dữ liệu thống kê – Kinh tế, Địa lý, Chính trị và Giáo dục
Yếu tố |
Việt Nam |
Phần Lan |
Diện tích |
331.210km2 |
338.145km2 |
Bờ biển dài |
3.444km |
1.250km |
Biên giới với các lân bang |
Tổng số: 4.616km Trung Cộng: 1.297km |
Tổng số: 2.563km
Nga Sô: 1.309km |
Dân Số* (2019) |
96,46 (triệu) |
5,52 (triệu) |
GDP* (2019) |
329,5 (tỷ Mỹ kim) |
269,3 (tỷ Mỹ kim) |
GDP/đầu người |
3.415,92 (Mỹ kim) |
48.786,23 (Mỹ kim) |
Thị trường Nhân dụng –2019* |
Lực lượng lao động: 54,659 triệu: Canh nông: 40,3%
|
Lực lượng lao động: 2,52 triệu: Canh nông: 4,0%
|
Ngân sách Giáo dục/GDP (2019) |
4,2% GDP |
6,4% GDP |
Thể chế Chính trị |
Duy nhất đảng cộng sản. |
Dân chủ, đa đảng. |
Thể thức Bầu cử |
Đảng chấp thuận, ứng cử viên mới hợp lệ. |
Phổ thông đầu phiếu, tự do tranh cử. |
Gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân xâm lược hùng mạnh |
Quân Trung Cộng xâm lăng Việt Nam |
Quân Nga xâm lăng Phần Lan |
Nguồn: IMF, World Bank, CIA World Factbook, nhiều nguồn khác, và người viết chiết tính.
Ghi Chú: * CIA World Factbook.
Bảng 1 tóm lược dữ liệu thống kê giữaViệt Nam với Trung Cộng ngày nay và Phần Lan với Liên Bang Sô Viết đưa đến chính sách ngoại giao mệnh danh là “Phần Lan Hóa” và dữ kiện về kinh tế, chính trị cũng như giáo dục ngày nay.
Sau một thời gian vắng bóng, “Phần Lan Hóa” đã trở thành một từ thông dụng và một giải pháp có tiềm năng cao. Gilley (2010) bàn đến Phần Lan Hóa Đài Loan và các lân bang Đông Á, và Kaplan (2014) lập luận rằng vận mệnh và tình trạng Việt Nam bị Trung Cộng “Phần Lan Hóa” tùy thuộc vào khả năng giữ thế thượng phong quân sự của Mỹ tại Thái Bình Dương trong thế kỷ thứ 21. Cũng trong năm 2014, hai cố vấn an ninh quốc gia kỳ cựu của Hoa Kỳ, Zbigniew Brzezinski và Henry Kissinger, đã đề xuất rằng Phần Lan Hóa có thể đóng vai trò là hình mẫu cho vị thế quốc tế của Ukraine.
2.3. Các vấn đề thiệt ẩn trong Phần Lan Hóa
Trở lại vấn đề chọn lựa của công dân trong một quốc gia như Việt Nam, trội điểm nơi đây là hệ quả của sự chọn lựa đến chủ quyền quốc gia và phúc lợi dân tộc. Laqueur (1977) chỉ ra rằng tuy Phần Lan cố gắng giữ vị thế độc lập của mình, đã phải trả các giá sau đây:
Mặc dù trên danh nghĩa, Phần Lan là một quốc gia trung lập, nhưng không hoàn toàn độc lập đối với Liên Bang Sô Viết, vì Phần Lan phải thi hành nhiều “nghĩa vụ đặc biệt” do Liên Bang Sô Viết quy định:
Laqueur (1977) cũng cho rằng “Điều quan trọng hơn tính trung lập là vấn đề tự̣ do, có liên quan thực tế ngay lập tức đến đời sống chính trị, xã hội và văn hóa của người dân Phần Lan. So với các quốc gia vệ tinh Đông Âu của Liên Bang Sô Viết, Phần Lan vừa độc lập vừa tự do. Quốc gia này có nhiều đảng chính trị (10 đảng), và nhiều cuộc bầu cử tự do. Các cơ chế của Phần Lan đặt trên nền tảng dân chủ, và hiến pháp được triệt để tôn trọng. Không có vụ bắt giữ tùy tiện; trên thực tế, không ai từng bị tống vào tù vì lý do chính trị. Người Phần Lan có thể tự do đi du lịch nước ngoài. Phần lớn nền kinh tế Phần Lan không bị quốc hữu hóa, một nếp sống văn hóa mạnh mẽ, và ảnh hưởng của Liên Bang Sô Viết đối với quốc gia này không mang tính chất áp đảo. Sách và báo nước ngoài tự do phổ biến một cách rộng rãi. Nói tóm lại, Phần Lan được hưởng các quyền tự do tương tự như các quốc gia phương Tây.”
Nhưng có một mặt khác của bức tranh, ít nhìn thấy hơn nhưng luôn hiện diện đó là Mạc Tư Khoa đã nhiều lần can thiệp vào nội tình của Phần Lan một cách trắng trợn. Các trường hợp can thiệp trắng trợn nhất của Liên Bang Sô Viết xảy ra vào năm 1958, khi Liên Bang Sô Viết yêu cầu chính phủ Fagerholm Dân Chủ Xã Hội từ chức, và vào năm 1961, khi Nga đe dọa viện dẫn hiệp ước năm 1948 trừ khi Kekkonen được tái đắc cử tổng thống.
Ảnh hưởng của Liên Bang Sô Viết thể hiện theo vô số cách. Trong cuộc sống chính trị Phần Lan, lòng trung thành với Liên Bang Sô Viết không nhất thiết, nhưng nếu bị xếp vào thành phần các chính trị gia “chống Liên Xô” thì cơ hội của họ khi theo đuổi một sự nghiệp quan trọng trong chính trị và chính phủ trở nên mỏng manh.
Forsberg và Pesu (2016) chỉ ra một đặc điểm quan trọng của Phần Lan Hóa mà các nhà phê bình cho là thoái hóa; đó là sự tự kiểm duyệt (self-censorship) của các phương tiện truyền thông Phần Lan. Trong những năm của thập niên 1950, vẫn còn những bình luận chỉ trích về chính sách đối ngoại của Liên Sô và Phần Lan đối với lân bang, nhưng sau đó tự kiểm duyệt bắt đầu kềm kẹp những sự chỉ trích này. Chính quyền của chính phủ Kekkonen còn đòi truyền thông Phần Lan báo cáo phù hợp với chính sách đối ngoại chính thức của chính phủ, được hiểu là không được chỉ trích Liên Bang Sô Viết trên hệ thống truyền thông dưới bất cứ hình thức nào.
Khác với một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á Châu, như Việt Nam hôm nay, Forsberg và Pesu (2016) nêu ra rằng chỉ có vài nghìn người Nga cư ngụ tại Phần Lan và họ là người di cư thời Nga Hoàng nên kịch liệt chỉ trích sự cai trị của cộng sản trong quê hương cũ của họ. Cũng theo Forsberg và Pesu (2016), phần lớn những người cộng sản Phần Lan là những người sẵn sàng ủng hộ chủ nghĩa xã hội ở Phần Lan; tuy nhiên, những người này thật ra rất yêu nước trong bất kỳ cuộc khủng hoảng nào liên quan đến chủ quyền của Phần Lan.
Forsberg và Pesu (2016) cảnh báo rằng “Bên cạnh mối quan hệ thân thiện trong chính sách đối ngoại, sự thành công của Phần Lan Hóa như một chiến lược sinh tồn trong một hệ thống quốc tế vô chính phủ cho nhà nước nhỏ có khả năng bị tấn công bởi nước láng giềng lớn và hung hăng phụ thuộc vào việc bảo tồn một cốt lõi cứng rắn: giữ cho quân đội nguyên vẹn, tránh sự phụ thuộc kinh tế, tinh thần yêu nước của lãnh đạo và xã hội nói chung với khoảng cách văn hóa.”
Đồng thời, Forsberg và Pesu (2016) cũng nêu ra một số các ảnh hưởng tiêu cực khác như: “…tự kiểm duyệt quá mức; tham nhũng chính trị nói chung, dựa trên tầm quan trọng của việc có danh tiếng, không phải là thành phần chống Liên Bang Sô Viết; cũng như thói quen tích cực núp bóng hay mượn danh Liên Bang Sô Viết để ngoéo chân hay đá giò lái các đối thủ chính trị tầm cỡ đáng kính khác chắc chắn có thể tránh được. Nhưng những đòn này không chỉ là lựa chọn cá nhân mà chúng đã được xây dựng trong các cấu trúc của Phần Lan Hóa như một nền văn hóa chính trị.”
3. Một Trong Các Kịch Bản Mà Một Lân Bang Của Trung Cộng, Như Việt Nam, Có Thể Phải Ứng Xử.
Ngày nay, các lân bang của Trung Cộng, đặc biệt là Việt Nam, nếu phải trực diện với kịch bản Phần Lan Hóa thì khởi điểm cho quá trình lượng giá kịch bản này để xem nó có khả năng là hình mẫu khả thi hay khước từ có thể là kết luận sau đây về Phần Lan Hóa của Forsberg và Pesu (2016): “… Trong mọi trường hợp, những vấn đề trên cần phải được cân nhắc kỹ khi chuyển bất kỳ bài học nào sang một thời đại khác, một nơi khác và cho những người khác nhau”.
3.1. Các vấn đề chung của các lân bang của Trung Cộng
Như Forsberg và Pesu (2016) cảnh báo, công dân và giới lãnh đạo với tinh thần và trách nhiệm với tổ quốc và dân tộc tại các nước láng giềng Trung Cộng cần nghiêm túc suy tư các bài học Phần Lan Hóa vì ngày nay mô hình này đang được luận bàn trong bối cảnh của các lân bang của Trung Cộng dưới vòm trời Á Châu nơi mà cả thời gian lẫn không gian, cũng như văn hóa khác biệt với Âu Châu trong thập niên 1940. Một yếu tố không kém quan trọng nữa là mặc dù cùng theo chủ thuyết cộng sản, nhưng Liên Bang Sô Viết tai Âu Châu trong thậ̣p niên 1940 khá khác biệt với Trung Cộng ngày nay, với lịch sử tham vọng đất đai và bành trướng to lớn.
Khác với người Nga sống tại Phần Lan trong thậ̣p niên 1940 như đã trình bày trên đây, khá đông người Trung Cộng cư ngụ tại các quốc gia vùng Đông Nam Á ngày nay đã bị Đảng Cộng Sản Trung Cộng (CCP) tẩy não nhiều năm và bao gồm cả nhân viên tình báo do Trung Cộng gài đặt, và đây là đạo quân thứ năm của CCP.
Mặc dù Phần Lan đã đã giữ được vị thế độc lập và tự do so với các quốc gia vệ tinh trong Liên Bang Sô Viết trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh; nhưng Nga xâm lăng Ukraine đã thay đổi điều kiện thế giới và gia tăng sự đoàn kết và sức mạnh của NATO, khiến Phần Lan quyết định gia nhập tổ chức này và bắt đầu xây hàng rào dọc biên giới Nga để kiểm soát làn sóng di dân từ Nga (El-Bawab, 2023). Sự chuyển trục về Á Châu của Mỹ và đồng minh và tham vọng bá quyền của Trung Cộng có thể đưa đến sự thành lập một liên minh mới, hay gia tăng sự đoàn kết và thế lực của các liên minh khu vực hiện hữu để đối trọng với Trung Cộng, biến chuyển này có thể làm thay đổi tình hình và tương quan giữa các quốc gia trong khu vực.
Đồng thời, dấu ấn của thời đại ngày nay là các xã hội trong cộng đồng quốc tế không còn “đồng thuận về tiêu chuẩn khách quan để minh định sự thực hay chân lý” mà nhiều xã hội “đã đồng thuận khi dùng những tiêu chuẩn chủ quan của riêng họ để minh định sự thực hay chân lý theo tư duy của họ (the post-truth society; Pinker, 2018)”. Vì thế, chúng ta thấy rất nhiều lãnh đạo trong xã hội thường nói thẳng, nói thật, nhưng thường không nói hết sự thật. Và mức độ “sự thật không được nói” tùy theo thể chế mà các “ngài” lãnh đạo đang áp dụng hoặc đang áp đặt. Do đó, để bảo vệ tương lai và phúc lợi của mình và tùy theo thực trạng đất nước, người dân, nhất là người Việt Nam, cần nghiêm chỉnh suy tư các bài học Phần Lan Hóa trong hiện tình quốc gia, khu vực, và cộng đồng thế giới để đưa đến giải pháp tối ưu (ngay cả khước từ) khi đất nước phải đối diện với kịch bản này.
Là lãnh đạo bá chủ thế giới từ sau thế chiến II, Hoa Kỳ đã thành lập và liên tục duy trì nền hoà bình Mỹ (Pax-Americana), với mục tiêu của chính sách đối ngoại là tối đa hóa phúc lợi của công dân Hoa Kỳ, bảo đảm hòa bình thế giới, thịnh vượng kinh tế, thúc đẩy dân chủ và nhân quyền, trong cả ngắn hạn và dài hạn; trong đó chính sách dài hạn bao gồm nhiều kế sách ngắn hạn. Cuối cùng, các kế sách ngắn hạn liên tiếp nhau đã quyết định bản chất thực tế của chính sách đối ngoại dài hạn của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai chính sách đối ngoại, nhất là trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay và các xã hội post-truth, các nhà hoạch định chính sách đã phải xem xét thực trạng kinh tế xã hội quốc tế, khu vực, địa chính trị và những vấn đề thực tại trong nước cũng như tình hình chính trị, để đưa ra những giả định và kết luận nhất định về những vấn đề này.
Do tính chất cực kỳ phức tạp và nghịch lý của những vấn đề vừa nêu trên, các nhà hoạch định chính sách thường phải chấp nhận một số giải pháp thứ cấp (second-best) hoặc không tối ưu cho một số vấn đề cấu thành để đạt được các mục tiêu của chính sách đối ngoại ngắn hạn nằm trong phạm vi một tổng thể mong muốn.
Do cấm vận Trung Cộng, giải cứu kinh tế do COVID-19 và chiến trận Ukraine gây khó khăn cho các nền kinh tế của Mỹ và đồng minh: lạm phát cao, gây ra do tác động cùng lúc và mang tính cộng hưởng của cầu kéo (demand-pull) và chi phí đẩy (cost-push) – có nghĩa là nhu cầu tăng vọt đi kèm với chi phí sản xuất gia tăng hơn mức dự đoán; một hiện tượng khá hiếm trong kinh tế vĩ mô. Tư duy chính trị phương Tây là “tình trạng kinh tế, tình trạng kinh tế, và tình trạng kinh tế, hỡi anh chàng ngốc kia (the economy, the economy, and the economy, stupid)”; được hiểu là chính khách và đảng cầm quyền sẽ bị thay thế trong cuộc bầu cử tới nếu một trong hai biến số kinh tế vĩ mô là lạm phát hay thất nghiệp vượt ngoài tầm kiểm soát trong nhiệm kỳ của họ.
Hai trong nhiều trường hợp chấp nhận giải pháp thứ cấp để giải quyết vấn đề kinh tế vĩ mô quốc nội của Mỹ có thể viện dẫn là:
(i) TT Biden viếng thăm Ả Rập Xê Út để giải quyết nạn tăng giá dầu thô đưa đến lạm phát, không lâu sau khi ông quyết liệt lên án ông Mohammed bin Salman Al Saud, thái tử cũng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của vương quốc này chủ mưu giết ký giả đối lập Jamal Ahmad Khashoggi;
(ii) Một trong các lý giải về nguồn gốc của cụm từ “Euro dollar” là để giải quyết vấn đề thặng dư nông phẩm do can thiệp vào giá thị trường để trợ giúp cựu chiến binh sau thế chiến II, chính phủ Mỹ đã lặng lẽ làm ngơ lệnh cấm vận giao thương với Nga để cho các nhà môi giới tại Âu Châu mua nông sản của Mỹ và bán lại cho Nga. Vì đồng ruble của Nga không thể hoán chuyển sang Mỹ kim trong thời kỳ chiến tranh lạnh nên Nga chuyển tài khoản thu được từ bán vũ khí cho ngoại quốc sang Mỹ kim và ký thác tại các cơ sở tài chính Âu Châu nên có tên là Euro dollar.3.2. Các vấn đề thêm cho Việt Nam
Ngoài các vấn đề chung cho các quốc gia vùng Đông Nam Á, Việt Nam còn có các vấn đề khó khăn tiềm ẩn khác sau đây, nếu phải ứng xử với kịch bản Phần Lan Hóa trong tương lai:
Khái niệm tổ quốc, dân chủ, nhân quyền cần phải xác định, nhất là trường hợp Việt Nam là quốc gia theo chế độ cộng sản với mục tiêu đấu tranh là xóa bỏ giai cấp nên khái niệm tổ quốc và lãnh thổ không là biến số trong phương trình lượng giá tiến bộ và thành công trong công tác đấu tranh; do đó, người dân cần minh định các khái niệm này nếu/khi họ đối diện với kịch bản Phần Lan Hóa.
Ngoài liên hệ quốc gia với quốc gia, chung cho các quốc gia vùng Đông Nam Á, trường hợp Việt Nam còn có sự liên hệ giữa đảng với quốc gia và đảng với Trung Cộng, và lời tuyên bố “thà mất nước hơn là mất đảng” đã được tỏ bày.
Trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, Klingler-Vidra và Wade (2020) là hai học giả về phát triển kinh tế thế giới, đầy uy tín và am tường về Việt Nam, sau khi nghiên cứu chính sách tuyên bố và sự thực thi tại quốc gia này, đã đưa ra một kết luận khá bi quan cho viễn tượng Việt Nam:
“Xu hướng sản xuất đồng thời ngày nay được tổ chức trong chuỗi giá trị toàn cầu, độc quyền kiến thức (bởi các công ty có trụ sở tại các nền kinh tế tiên tiến), tài chính hóa và áp lực điều chỉnh bất đối xứng đối với các quốc gia thâm hụt, cũng có nghĩa là các nước đang phát triển khó có thể hội tụ hay bắt kịp với các nền kinh tế tiên tiến về mức năng suất thông qua ‘sức mạnh hay cơ chế của thị trường’. Nhà nước phải phối hợp để hướng dẫn, thúc đẩy, cũng như định hướng cho đầu tư bằng cách mở rộng khả năng hấp thụ công nghệ từ nơi khác và đổi mới tại quốc nội là một điều kiện cần thiết cho sự tăng trưởng nhanh và bền vững. Chính sách khoa học và công nghệ không định hướng, không có nhà nước phối hợp có thể sẽ không ‘bắt kịp’, vì chỉ tạo điều kiện giúp thiết lập các công ty khởi nghiệp dễ dàng hơn theo mô hình của Thung Lũng Silicon mà không tăng đầu tư vào các khả năng kỹ thuật làm nền tảng cho những nỗ lực tương tự ở Trung Cộng. Điều này khiến các công ty khởi nghiệp được định sẵn vẫn là những doanh nghiệp bắt chước và lắp ráp. Chính sách này sẽ không có triển vọng cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế hầu thoát bẫy thu nhập trung bình mà đại đa số các nền kinh tế có mức thu nhập trung bình trên thế giới đã bị sập.”
Nông sản có tỷ trọng quan trọng trong tài khoản xuất khẩu của Việt Nam, nhất là gạo và thuỷ sản nuôi; thế nhưng vấn đề nhiễm mặn đang gây thiệt hại nghiêm trọng trong quá trình canh tác và nuôi thủy sản của Việt Nam.
Một điều rất khó phản biện là sai lạc trong chính sách phát triển khoa học và kỹ thuật cùng với vấn đề trong quá trình canh tác và nuôi thủy sản sẽ dẫn đến nhiều hệ quả tiêu cực trong phát triển kinh tế và ngoại thương của Việt Nam trong tương lai.
Về mặt địa lý chiến lược, Phi Luật Tân đã thỏa thuận cho cho phép Mỹ tiếp cận tất cả 9 căn cứ cứ quân sự (The Economist, 21 tháng 2, 2023) quanh khu vực quần đảo Luzon, cũng là vùng tranh chấp giữa Phi và Trung Cộng, Nhật gia tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng, sự chào đời của AUKUS và the QUAD Alliance, và nhiều biến chuyển khác đang trong quá trình triển khai trong vùng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ quan trọng của Việt Nam trong chiến lược Á Châu của Mỹ và đồng minh trong tương lai.
Trong tình cảnh thế giới đảo điên mà Biển Đông là một phần của vấn đề điên đảo, cấm vận Trung Cộng gây rối loạn chuỗi cung ứng sản phẩm nên Mỹ phải tìm nguồn cung cấp thay thế để giải quyết vấn đề lạm phát do cầu kéo và chi phí đẩy. Qua những dòng tạp ghi này người viết ước đoán rằng:
(i) Trong ngắn hạn, vì cuộc tranh giành với Trung Cộng, về chiến thuật, chiến lược, và kinh tế, Mỹ cố gắng kéo Việt Nam về phía mình hay ít nhất ngăn cản Việt Nam tiến gần hơn với Trung Cộng. Về mặt chuỗi cung ứng, mặc dù Trung tâm Nghiên cứu Stratfor đã nhận diện 16 quốc gia có nền kinh tế mới khởi sắc, kể cả Việt Nam, với nhân công rẻ và tổng dân số hơn một tỷ người để thay thế vai trò của Trung Cộng trong chuỗi cung ứng toàn cầu và gọi chúng là P-16, (16 quốc gia hậu Trung Cộng); tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này cần thời gian. Trong số P-16, mức độ “xuất cảng” của Việt Nam tăng nhanh và lấp một khoảng trống quan trọng trong nhu cầu nhập cảng của Mỹ, bằng chứng là số lượng xuất cảng sang và xuất siêu của Việt Nam với Mỹ gia tăng lũy tiến.
Trớ trêu thay, dù có bóp méo ngôn ngữ thế nào để tuyên truyền hay biện minh thì Marx đã thuyết giảng rằng kết quả tất yếu của sự tồi tệ quá độ (threshold limit) của chế độ tư bản sẽ đưa đến xã hội chủ nghĩa của chế độ cộng sản, được hiểu là phải thay đổi chế độ thì mới có thể giải quyết vấn đề quá độ. Do đó, nếu trung thành theo thuyết giải của Marx thì đơn thuốc trị thứ siêu vi khuẩn tham nhũng quyền và tham nhũng tiền đã lây lan khắp các lĩnh vực ở Việt Nam là thay đổi cơ chế chính trị vốn khuyến khích và dung túng tham nhũng.
Trong bối cảnh hiện nay, với giả định rằng Mỹ sẽ chấp nhận giải pháp thứ cấp để giải quyết vấn đề kinh tế vĩ mô quốc nội và vấn đề Biển Đông, chính phủ Mỹ, ở một tầm cỡ nào đó, đang lặng lẽ làm ngơ trước các vi phạm nhân quyền, quyền tự do ngôn luận, nguồn gốc của sản phẩm xuất cảng, và vấn đề thao túng tiền tệ, v.v..., của nhà nước Cộng Sản Việt Nam.
(ii) Tuy nhiên, trong dài hạn, vấn đề liên minh khu vực, hiệu quả của vấn đề Mỹ tiếp cận tất cả 9 căn cứ cứ quân sự vùng bắc Phi Luậ̣t Tân, vấn đề Biển Đông, và chiều hướng của sự tranh giành Mỹ-Trung sẽ rõ nét hơn, ảnh hưởng tiêu cực từ những khó khăn kinh tế nêu trên sẽ được phơi bày, quá trình chuyển đổi từ Trung Cộng sang P- 16 sẽ hoàn chỉnh hơn. Hơn nữa:
Nếu kịch bản này thành hiện thật và nếu vấn đề Việt Nam được giải quyết dựa trên những thỏa thuận, cam kết và bảo đảm từ một hội nghị quốc tế, khi đầu dây đu từ phía Mỹ và đồng minh bị tuột ra, thì xác suất để Việt Nam phải ứng xử với giải pháp Phần Lan Hóa sẽ gia tăng và khả năng đàm phán hay khước từ giải pháp này sẽ bị giới hạn nghiêm trọng.
Nguy hiểm hơn nữa là, trong kịch bản này, Việt Nam sẽ lâm vào cảnh ngộ tồi tệ hơn điều kiện của Phần Lan trong hậu bán thập niên 1940 và phải trực diện với Trung Cộng và đảng cộng sản anh em hung hăng, thâm độc, nguy hiểm, với tham vọng bá quyền hơn Liên Bang Sô Viết trong các thập niên 1940 và 1950 gấp bội lần. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn và nguy hiểm này, và ngoài vấn đề tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa, ảnh hưởng tiêu cực do Công hàm năm 1958 do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký (dù vấn đề pháp lý vẫn còn tranh cãi), Việt Nam phải ứng xử với các vấn đề siêu tiêu cực, có thể, sau đây:
Trung Cộng với ý đồ xâm chiếm trọn biển đông qua các hình thức xây dựng các chuỗi đảo nhân tao, củng cố và bành trướng các đảo đã chiếm giữ tạo thành các vùng nhận dạng phòng không và các đảo lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong biển đông nằm chuỗi đầu đảo đầu tiên mà mà Trung Cộng muốn chiếm đoạt hầu làm chủ và kiểm soát các ngõ biển (maritime traits) qua Thái Bình Dương và Đại Tây Dương. Các vùng và biển đảo của Việt Nam có khả năng cao thỏa mãn nhu cầu chiến thuật, chiến lược, và mục tiêu kinh tế của Trung Cộng ngày nay có thể kể là:
– Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
– Hai khu vực: Vân Đồn và Bắc Vân Phong. Vân Phong là một khu kinh tế nằm bao quanh vịnh Vân Phong ở phía bắc tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam, có độ sâu 27m so với 7m của sông Cửu Long, nên các tàu vận chuyển với trọng tải cao có thể đổ và cất hàng.
– Đảo Phú Quốc.
– Đảo Côn Sơn, dù nhỏ hơn đảo Phú Quốc, nhưng cũng có vị thế chiến lược cho Trung Cộng không kém đảo Phú Quốc, nhưng không được báo giới nhắc đến.
Vì tự do đi lại trên biển quốc tế là một sản phẩm công quốc tế; do đó, cũng là một phần của Pax Americana, nên Mỹ và đồng minh sẽ phải bảo vệ. Hơn nữa, Biển Đông cũng là thủy lộ sinh tử cho hai cường quốc kinh tế Á Châu: Nam Hàn và Nhật. Đây cũng là hai biến số trong phương trình quy định cách hành xử của Trung Cộng trong vấn đề tự do đi lại trên Biển Đông. Trong khi chủ quyền quốc gia, biển đảo, cơ chế chính trị và công quyền là sản phẩm tư của quốc gia, do đó, trong kịch bản trên, công dân Việt Nam phải tự ứng xử.
4. Thay Lời Kết
Theo cảm tính của người viết, hoàn cảnh tổng quan của người Việt trong nước bây giờ rất tệ hại so với người Phần Lan trong thời kỳ mà quốc gia của họ bị Phần Lan Hóa, mặc dù TBT Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần tự hào rằng “nước ta được tự do đến thế”. Đồng thời, nếu dân tộc Việt Nam phải ứng xử với kịch bản Phần Lan Hóa khi đầu dây đu từ phía Mỹ và đồng minh bị tuột ra, Trung Cộng sẽ đương nhiên đòi hỏi, ngoài các đòi hỏi khác, chủ quyền hay ít nhất quyền sử dụng các khu vực và biển đảo nêu trên.
Một nguy hiểm tiềm ẩn khác là lý do giả tạo mà Nga đưa ra để xâm lược Ukraine là tố cáo chính quyền Ukraine đàn áp người Nga hay người nói tiếng Nga. Dĩ nhiên, khi cần, Trung Cộng có thể viện dẫn cùng lý do giả tạo này đối với đạo quân thứ năm của họ tại Việt Nam.
Do đó, có lẽ công dân Việt Nam cần phản tỉnh để thoát ra khỏi mê hồn trận do bộ máy tuyên truyền vĩ đại của nhà nước giăng bày, để thực thấy và suy ngẫm những vấn đề nêu trên hầu xây dựng phương sách giải nguy cơ mất nước về tay Trung Cộng ngay từ bây giờ; vì cửa sổ cơ hội cho công tác cứu Quốc Tồn Chủng của công dân Việt sẽ khép kín rất nhanh.
Phần Lan là một nưóc độc lập trong khi đó Việt Nam là một nước độc tài đàn áp mọi tiếng nói đối lập với chính quyền. Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc Trung Cộng trên mọi mặt từ chính trị đến kinh tế, môt điểm vô cùng khác biệt cần lập lại nơi đây. Do đó, “Phần Lan Hoá” không là một giải pháp tối ưu cho Việt Nam.
Đồng thời, người viết cũng tuyệt đối tin rằng chỉ có dân tộc Việt Nam mới thật sự hiểu khát vọng của người Việt Nam và mới có quyền quyết định vận mệnh quốc gia; và, cũng chính dân tộc Việt Nam sẽ được hưởng hay gánh chịu hậu quả, ngay cả khi bị đổ máu, vì các chọn lựa của mình. Hơn nữa, trong cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do, hùng cường, và hạnh phúc cho dân tộc, sẽ không có Charles de Gaulle, của Pháp; mà chỉ có Lech Walęsa, của Ba Lan; Václav Havel, của Tiệp Khắc; và Nelson Mandela, của Nam Phi; được hiểu là chỉ có người Việt Nam quốc nội mới có khả năng đấu tranh cho tự do và hạmh phúc cho dân tộc như lịch sử cận đại đã cho thấy tại Ba Lan, Tiệp Khắc, và Nam Phi.
Đã không còn ngày ngày dấn bước trên các nẻo đường dưới vòm trời Việt Nam, người viết, với kiến thức thô thiển, xin chỉ mạo muội góp nhặt một số dữ liệu về các tranh luận về một đề tài không mấy phổ thông qua thời gian nơi hải ngoại và đôi điều suy tư theo cảm tính cá nhân để chia sẻ với những ai muốn chia sẻ mà tuyệt đối không có chủ đích bình phẩm, biện minh, hay đề nghị cho những gì mà dân tộc Việt Nam chọn cho chính mình.
.
Nguyễn Văn Chữ
__________
Tài Liệu Tham Khảo
.
Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/thoisu/phanlanhoakichbanvietnam.html