Lê Ngọc Vân


Các kinh tế gia kinh ngạc khi biết ai đang phải trả thuế quan

Trên thực tế, phần lớn chi phí đổ lên đầu người nước ngoài.

 

Xét trên mọi phương diện, đây là một khoản lỗ khổng lồ. Khi Volkswagen công bố lợi nhuận quý 3 vào cuối tháng 10/2025, gã khổng lồ ngành xe hơi của Đức cho biết họ dự đoán sẽ lỗ nặng trong năm nay. Lý do? Hãng đang chịu khoản lỗ 5 tỷ euro do thuế quan được áp đặt tại thị trường Mỹ. Tương tự, Adidas, nhà sản xuất đồ thể thao của Đức cảnh báo về khoản lỗ 120 triệu euro lợi nhuận của họ, một phần do các khoản thuế mà giày thể thao của hãng hiện đang phải đối mặt tại Hoa Kỳ, trong khi Toyota cảnh báo về khoản lỗ 9 tỷ đô la do thuế quan.

Với bất kỳ ai theo dõi mùa báo cáo thu nhập của các công ty trong tháng vừa qua, một thông tin với chủ đề rõ rệt đã xuất hiện từ các công ty khổng lồ của ngành công nghiệp châu Âu và châu Á: Chính sách thuế quan của Tổng thống Trump đang bắt đầu làm sụt giảm lợi nhuận của họ ở mức đáng kể. Nhưng cứ đợi đó. Chẳng phải là mọi người trong chúng ta đã từng được thông báo rằng thuế quan chỉ đơn giản là sẽ được chuyển thẳng sang người tiêu dùng tại Mỹ dưới hình thức tăng giá hay sao? Rồi người ta đã chẳng nói rằng thuế quan là một loại thuế đánh vào người lao động bình thường hay sao? Nhưng thay vào đó, tới nay rõ ràng là ít nhất một số chi phí đang được các tập đoàn nước ngoài và thậm chí cả chính phủ nước ngoài chi trả.

Khi Tổng thống Trump lần đầu tiên công bố chính sách thuế quan toàn diện của mình vào “Ngày Giải phóng” (phải thừa nhận: cái tên này nghe kỳ lạ) hồi tháng tư vừa qua, thế giới kinh tế đã rơi vào một cuộc khủng hoảng có thể dự đoán trước được. Từ các trang xã luận của tờ Financial Times đến các phòng hội thảo tại Harvard, các lời kết luận trước đây đều giống nhau: đây chỉ đơn giản là một đợt tăng thuế dưới một cái tên khác, và người tiêu dùng ở Mỹ sẽ phải gánh chịu hậu quả. Viện Peterson cũng tham gia hòa điệu với dự đoán thảm họa. Đúng vậy, các tuyên bố luôn được che đậy bằng rất nhiều cảnh báo mang tính học thuật, dựa trên sách vở. Nhưng ấn tượng chung là thuế quan sẽ chứng tỏ đó là thảm họa cho nền kinh tế Mỹ.

Tuy nhiên, sau vài tháng kể từ khi có sự thay đổi mạnh nhất trong chính sách thương mại của Mỹ trong nhiều thế hệ, các bằng chứng đang bắt đầu cho thấy một câu chuyện hoàn toàn khác. Đúng, thuế quan là một loại thuế. Nhưng đó là loại thuế mà chủ yếu do các công ty và chính phủ nước ngoài nộp, chứ không phải do người tiêu dùng Mỹ mà chúng ta đáng lẽ phải khóc thương. Và điều đó đã thay đổi mọi thứ.

Đúng là chế độ thuế quan chỉ mới được thực thi đầy đủ vào tháng 8, và Trump đã cắt giảm rất nhiều thỏa thuận phụ có thể giảm thiểu tác động của chúng. Tuy nhiên, những con số tự nó đã nói lên tất cả. Hoa Kỳ hiện áp dụng mức thuế quan trung bình là 18,6%, đây là mức cao nhất kể từ năm 1933, theo Phòng Nghiên cứu Ngân sách của Đại học Yale. Nếu quan niệm thông thường là đúng, chúng ta sẽ chứng kiến ​​một vòng xoáy lạm phát. Các gia đình Mỹ sẽ phải rên rỉ dưới sức nặng của giá cả tăng vọt trên nhiều loại hàng tiêu dùng. Thí dụ, Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang New York, John Williams, đã cảnh báo ngay sau Ngày Giải Phóng rằng lạm phát có thể tăng lên 4%, trong khi Thống đốc Quỹ Dự trữ Liên bang Christopher Waller cho biết lạm phát có thể lên tới 5%.

Nhưng thay vào đó, lạm phát hiện đang ở mức khoảng 3%. Hãy suy nghĩ một chút về điều đó. Chính phủ áp đặt một loạt thuế nhập khẩu khổng lồ và lạm phát hầu như không thay đổi. Công cụ theo dõi thuế quan của Trường Kinh doanh Harvard, vốn đã theo dõi sự thay đổi giá cả trên các lĩnh vực bị ảnh hưởng, ước tính tỷ lệ “truyền tải” (mức tăng thuế được nhà nhập cảng cộng thêm vào giá bán để bắt người tiêu thụ phải gánh một phần – chú thích của người dịch) vào khoảng 20%, nghĩa là chỉ một phần năm chi phí thuế quan thực sự xuất hiện trong giá tiêu dùng. Ngay cả con số đó cũng có thể là khá rộng rãi vì nó bao gồm một số điều chỉnh tạm thời khó có thể kéo dài.

Chắc chắn là vẫn có những khó khăn tạm thời. Ngành xe hơi đã chứng kiến ​​áp lực giá cả, đặc biệt là đồ phụ tùng và linh kiện. Một số thiết bị công nghiệp chuyên dụng đã trở nên đắt hơn. Nhưng những viễn cảnh bi thảm mà phe đối lập vẽ ra vẫn chưa thành hiện thực. Người tiêu dùng Mỹ, như dự đoán, không phải chịu bất kỳ gánh nặng nào gần bằng toàn bộ gánh nặng của các rào cản thương mại.

Quan niệm sách vở chính thống gặp thực tế

Như vậy, điều gì đang thực sự xảy ra? Tiền đang chảy về đâu? Câu trả lời hé lộ ba động lực hấp dẫn mà chủ nghĩa chính thống kinh tế, như thường lệ, đã không lường trước được.

Đầu tiên, và có lẽ quan trọng nhất, phần lợi nhuận trên thị trường xuất khẩu đã được thổi phồng một cách kỳ lạ. Trong nhiều năm, các nhà sản xuất nước ngoài đã thu về lợi nhuận khổng lồ tại thị trường Mỹ. Các công ty không bao giờ tiết lộ chính xác mức biên lợi nhuận mà họ đang kiếm được; bởi điều đó sẽ cung cấp quá nhiều thông tin cho các đối thủ cạnh tranh. Nhưng dường như các nhà sản xuất xe hơi Đức đã thu được lợi nhuận khổng lồ khi bán xe cao cấp tại Mỹ, trong khi các nhà sản xuất hàng xa xỉ của Pháp và Ý thậm chí còn trắng trợn hơn, với một số hãng thời trang đã tăng giá sản phẩm dành cho các nhà bán lẻ Mỹ lên tới 200% hoặc hơn.

Lợi nhuận từ vi mạch chips có thể còn cao hơn nữa, trong khi ngay cả những mặt hàng thông dụng trên kệ hàng của Walmart và Target cũng có thể mang lại lợi nhuận đáng ngạc nhiên cho các công ty nước ngoài. Tại sao? Bởi vì họ có thể làm được như vậy. Suốt nhiều thập kỷ, cạnh tranh nội địa của Mỹ đã bị khoét rỗng một cách có hệ thống. Năng lực sản xuất được chuyển ra nước ngoài. Các đối thủ địa phương lụi tàn. Sân chơi đã bị nghiêng hẳn về một bên đến mức các nhà xuất khẩu nước ngoài thấy mình đang hoạt động trong một môi trường cạnh tranh thấp, và họ có thể áp đặt mức giá cao mà không bị trừng phạt. Tất nhiên, trong một số trường hợp, điều này cho phép họ chuyển thuế quan thành giá tăng, nhưng nó cũng cho phép họ tự gánh chịu chi phí.

Thuế quan giờ đã thay đổi cuộc chơi. Các nhà sản xuất xe hơi Đức, khi đối mặt với mức thuế 25% đánh trên những xe được chở đến các cảng của Mỹ, đã âm thầm gánh chịu phần lớn chi phí thay vì tự đẩy mình ra khỏi thị trường béo bở của Mỹ. Mô hình tương tự cũng xuất hiện trong các ngành công nghiệp khác. Các công ty điện tử Hàn Quốc dường như đã cắt giảm biên lợi nhuận thay vì chuyển chi phí cho các nhà bán lẻ Mỹ, trong khi ngay cả các nhà sản xuất Trung Quốc, bất chấp sự hăm dọa của Bắc Kinh, đã tìm ra cách để gánh chịu chi phí thuế quan thông qua việc giảm lợi nhuận thay vì từ bỏ quyền tiếp cận thị trường. Đặc biệt là ở châu Á, nhiều nhà xuất khẩu vào thị trường Mỹ có tầm cỡ là do tư nhân sở hữu, vì vậy có rất ít dữ liệu được công bố về mức biên lợi nhuận mà họ đang tạo ra. Nhưng nếu bạn quan tâm, các manh mối có ở khắp mọi nơi. Chỉ một phần nhỏ của mỗi mức thuế quan được chuyển sang người tiêu dùng Mỹ, và điều đó có nghĩa là nó đang được một nơi khác chịu. Theo Phòng Nghiên cứu Định giá của Đại học Harvard, giá hàng nhập khẩu đã tăng 5,4% từ tháng 3 đến tháng 9 khi thuế quan được áp dụng, so với 3% đối với hàng hóa trong nước, do đó một số mức thuế quan đã được chuyển sang nhưng vẫn chưa phải là toàn bộ chi phí. Nói cách khác, thị trường đã điều chỉnh, nhưng không theo cách mà sách giáo khoa vẫn từng dự đoán.

Có một động lực thứ hai thậm chí còn thú vị hơn: các khoản trợ cấp của chính phủ. Khi thuế quan đe dọa quyền tiếp cận một thị trường quan trọng về mặt chiến lược, các chính phủ nước ngoài thường can thiệp để giảm bớt tác động của nó. Điều này có thể đặc biệt đúng với Trung Quốc, nơi Đảng Cộng Sản cầm quyền nhìn nhận thương mại thông qua lăng kính địa chính trị rõ ràng. Lấy ngành công nghiệp sản xuất các tấm pin mặt trời làm ví dụ. Chính phủ Hoa Kỳ đã áp thuế đối với các tấm pin trong hơn một thập kỷ nhằm bảo vệ ngành công nghiệp trong nước, nhưng điều đó không giúp ích gì nhiều trong việc giảm nhập khẩu, một phần vì các công ty Trung Quốc đã chuyển sản xuất sang các quốc gia có mức thuế quan thấp hơn, nhưng phần khác cũng vì chính phủ, thay vào việc để cho các nhà xuất khẩu chịu thuế nặng, đã gánh giùm một phần chi phí.

Trên thực tế, chính phủ Trung Quốc, thông qua các ngân hàng nhà nước và quỹ phát triển ở cấp tỉnh, đã cung cấp tín dụng giá rẻ cho các nhà sản xuất và trợ cấp xuất khẩu, qua đó vô hiệu hóa hiệu quả tác động của thuế quan. Bắc Kinh không quan tâm đến việc tối đa hóa lợi nhuận ngắn hạn; họ muốn duy trì thị phần và duy trì vị thế thống trị trong một lĩnh vực chiến lược. Tương tự, Liên minh Châu Âu, mặc dù không bao giờ thừa nhận công khai, đã có hành vi tương tự. Khi thuế đánh trên thép của Mỹ đe dọa các nhà sản xuất lớn của Châu Âu, một số chính phủ đã âm thầm tăng cường hỗ trợ thông qua một loạt các biện pháp chính sách công nghiệp, bao gồm tài trợ nghiên cứu, cho vay ưu đãi và bảo đảm tín dụng xuất khẩu. Đường lối chính thức luôn nhắm vào đổi mới và khả năng cạnh tranh. Nhưng hiệu quả thực tế là giúp các nhà sản xuất chịu đựng được chi phí thuế quan và duy trì thị phần quan trọng của họ trên thị trường Mỹ.

Nhắc lại một lần nữa, con số thực sự không bao giờ được tiết lộ. Nhưng hoàn toàn có khả năng là chính phủ các nước ngoài hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu đang bị ảnh hưởng bởi thuế quan của Mỹ hiện lên tới hàng chục tỷ đô la mỗi năm. Số tiền đó trước đây đến từ bóp tiền của dân Mỹ, và giờ đây nó được người nộp thuế ở Bắc Kinh, Berlin và Tokyo trả. Đây là một sự chuyển giao tài sản đáng chú ý mà không được đề cập đến trong các cuộc tranh luận chính thống về thuế quan. Trong sách giáo khoa kinh tế học tiêu chuẩn, thuế quan có thể do người tiêu dùng ở quốc gia áp đặt thuế quan chi trả. Nhưng trên thực tế, chính sách thương mại chịu ảnh hưởng không nhỏ từ chính trị, và điều đó có nghĩa là thuế quan thường được tiêu tán ở nơi khác.

Cuối cùng, và có lẽ là điều đáng khích lệ nhất đối với những ai tin tưởng vào sự năng động của nước Mỹ, chính là phản ứng của giới doanh nhân. Thuế quan tạo ra nhiều cơ hội và các chủ doanh nghiệp Mỹ đã cho ta thấy những chỉ dấu là họ sẽ rất giỏi trong việc nắm bắt chúng. Tất nhiên, khi thuế quan được các tập đoàn hoặc chính phủ nước ngoài chịu gánh đỡ, cơ hội đó sẽ giảm đi. Nhưng ở nơi nào không có chuyện đó, các doanh nghiệp nội địa có thể tham gia thị trường.

Chúng ta đã chứng kiến ​​sự gia tăng mạnh mẽ trong đầu tư vào ngành sản xuất của Mỹ khi các tập đoàn châu Âu và châu Á nhận ra rằng đó là cách duy nhất để lách thuế quan của Mỹ. Tay khổng lồ dược phẩm Anh-Thụy Điển AstraZeneca đã công bố khoản đầu tư 50 tỷ đô la để xây dựng nhà máy tại Mỹ. Nhà sản xuất chất bán dẫn Đài Loan TSMC đã công bố khoản đầu tư 100 tỷ đô la để bắt đầu sản xuất chip tại Mỹ. Thậm chí còn có thông tin cho rằng nhà sản xuất chocola Lindt của Thụy Sĩ có thể chuyển sản xuất mấy chú Thỏ Phục Sinh sang Mỹ. Trong vài năm tới, chúng ta sẽ chứng kiến ​​một làn sóng đầu tư nước ngoài do thuế quan thúc đẩy, và điều đó sẽ vừa thúc đẩy tăng trưởng vừa hạ giá thành sản phẩm trong nước.

Tuy nhiên, phản ứng thú vị hơn sẽ đến từ các công ty khởi nghiệp ở Mỹ. Nếu các nhà xuất khẩu Việt Nam hoặc Ba Lan hiện đang phải đối mặt với mức thuế quan đáng kể, thì sẽ có cơ hội cho một công ty khởi nghiệp ở Mỹ bước vào thị trường. Chắc chắn, họ sẽ phải tìm cách cạnh tranh về chi phí. Nhưng với việc thuế quan đi kèm với những tiến bộ trong trí tuệ nhân tạo và robot, điều đó có thể dễ dàng hơn nhiều khi so với gần 20 năm qua. Lịch sử kinh tế cho thấy khi một cơ hội thị trường được mở ra, các doanh nhân sẽ rất nhanh chóng tìm ra cách khai thác nó. Khi thị trường nội địa được bảo hộ thuế quan trở nên sinh lời, những công ty mới sẽ xuất hiện. Sự đổi mới sẽ tăng tốc và hiệu quả sẽ được cải thiện.

Từ Bắc Kinh đến Washington

Cho đến nay, thuế quan đang tạo ra thêm 30 tỷ đô la cho Kho tiền tệ dự trữ của Hoa Kỳ mỗi tháng. Nếu điều này được duy trì – và không có lý do gì để cho là nó sẽ không được duy trì – thì con số này tương đương với khoảng 360 tỷ đô la thuế hàng năm đánh vào hàng hóa nước ngoài, một con số khổng lồ xét trên mọi phương diện. Nếu những người chỉ trích đúng, con số này sẽ tương đương với mức tăng thuế 360 tỷ đô la đối với các gia đình Mỹ. Nhưng nếu tỷ lệ chuyển nhượng (tiền thuế nhập khẩu phải trả thêm sẽ được nhà nhập cảng và bán lẻ tính vào giá thành – chú thích của người dịch) thực sự vào khoảng 20%, thì chỉ có khoảng 72 tỷ đô la thực sự rơi vào túi người tiêu dùng Mỹ. Còn 288 tỷ đô la còn lại? Số tiền đó đang được các nhà xuất khẩu nước ngoài và chính phủ nước ngoài gánh chịu.

Ta phải nghĩ theo cách này: đó là khoản chuyển giao tài sản hàng năm trị giá 288 tỷ đô la từ Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bộ Tài chính Đức và nhiều thực thể nước ngoài khác sang Kho bạc Hoa Kỳ. Số tiền đáng lẽ đã chảy vào Bắc Kinh hoặc Berlin thì nay lại chảy vào Washington. Lợi nhuận lẽ ra thuộc về các cổ đông nước ngoài thì lại không còn nữa hoặc ở lại với người tiêu dùng Mỹ (dưới hình thức giá cả gần như không tăng) hoặc bị các công ty Mỹ thâu tóm (khi họ xây dựng lại thị phần).

Đó có phải là một chính sách tốt không? Có lẽ điều này phụ thuộc vào chuyện bạn là ai. Nếu bạn là một giáo sư kinh tế gắn bó với những mô hình trong đó có sự cạnh tranh một cách đúng đắn và một thị trường không bị chen vai thích cánh, bạn có thể vẫn ghét thuế quan. Nếu bạn là một giám đốc điều hành doanh nghiệp được hưởng lợi từ hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu hóa theo lối xưa và mướn được lao động nước ngoài với mức lương thấp, bạn có thể sẽ rất tức giận. Nếu bạn là một nhà sản xuất nước ngoài đã nhiều năm được tận hưởng một doanh số bán hàng tại Mỹ với nhiều lợi nhuận có được từ xuất khẩu, bạn chắc chắn sẽ không hài lòng. Nhưng nếu bạn là một công nhân Mỹ trong một nhà máy được phục hồi, bạn có thể cảm thấy khác. Nếu bạn là một quan chức Bộ Tài chính đang theo dõi dòng tiền thu được do thuế quan trong khi lạm phát vẫn ở mức thấp, bạn có thể cho là chính sách này đang hoạt động khá tốt. Còn nếu như bạn lo ngại về năng lực công nghiệp và sự độc lập chiến lược của Mỹ, bạn có thể kết luận rằng một số gián đoạn ngắn hạn là cái giá xứng đáng cho khả năng phục hồi lâu dài.

Điểm cần bàn rộng hơn ở đây là về mối lợi. Trong nhiều thập kỷ, chính sách thương mại của Mỹ được thực hiện với mục tiêu chính là giảm thiểu giá cả bằng mọi cách, ngay cả khi nó tàn phá các cộng đồng, tạo ra sự phụ thuộc vào các đối thủ tiềm ẩn và dẫn đến mức thâm hụt thương mại lớn. Nếu cho rằng khi kinh tế vận hành trong một thị trường mở, tất cả các tác nhân sẽ được hưởng lợi gần như nhau, và bất kỳ sự đi chệch khỏi nguyên tắc chính thống của thương mại tự do đều là điên rồ.

Thực tế đã chứng minh phức tạp hơn một chút. Hóa ra, thị trường mở mang lại lợi ích cho một số lĩnh vực hơn hẳn những lĩnh vực khác. Và khi các đối tác thương mại nước ngoài trợ cấp cho dịch vụ xuất khẩu, hoặc thao túng tiền tệ, hoặc hoạt động theo các hệ thống chính trị và kinh tế hoàn toàn khác biệt, những lợi ích lý thuyết của thương mại tự do có thể biến mất rất nhanh chóng. Thuế quan đại diện cho một cách tiếp cận khác, một cách tiếp cận có ưu tiên rõ ràng lợi ích của Mỹ hơn là các lý thuyết kinh tế trừu tượng. Chúng là một công cụ để tái cân bằng các mối quan hệ, để xây dựng lại năng lực và để đảm bảo cạnh tranh diễn ra theo một điều gì đó gần gũi hơn với các điều khoản công bằng.

Liệu chúng có hoàn hảo không? Tất nhiên là không. Một số lĩnh vực phải đối mặt với những thách thức thực sự. Một số sản phẩm thực sự đắt đỏ hơn. Ví dụ, theo dữ liệu từ Cục Thống kê Lao động, giá thiết bị âm thanh đã tăng 14% từ tháng 3 đến tháng 8, quần áo tăng 8%, còn dụng cụ và thiết bị tăng 5%. Tuy nhiên, ngay cả điều này cũng có thể là một cơ hội dài hạn cho các doanh nhân Mỹ khi giá cả hàng nhập khẩu từ châu Âu và châu Á tăng lên.

Chính sách này tạo ra người thắng và kẻ thua, như tất cả các chính sách khác. Nhưng những dự đoán về ngày tận thế đã không xảy ra, và những lợi ích – từ việc tạo việc làm đến tạo doanh thu cho đến định vị lại chiến lược – ngày càng rõ ràng hơn.

Quay trở lại những năm 1850, thuế quan chiếm khoảng 80% tổng doanh thu của liên bang. Vấn đề là chính phủ ngày nay lớn hơn nhiều so với trước đây. Thuế quan khó có thể đạt được con số đó một lần nữa. Nhưng chúng có thể thay thế 540 tỷ đô la mà Bộ Tài chính thu được từ thuế doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp Mỹ khi đó sẽ được miễn thuế liên bang trong khi các tập đoàn nước ngoài sẽ phải trả thay. Điều này sẽ thúc đẩy mạnh mẽ khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.

Điểm quan trọng nhất chắc chắn là: Không có gì sai trái khi một chính phủ mạnh mẽ thúc đẩy lợi ích của chính công dân mình. Mọi quốc gia thành công trong lịch sử đều đã làm chính xác điều đó. Câu hỏi không phải là liệu các chính phủ có nên theo đuổi lợi ích quốc gia hay không, mà là họ nên làm như thế nào và liệu các công cụ họ sử dụng có thực sự hiệu quả hay không. Về điểm này, thí nghiệm thuế quan đang diễn ra khá khác so với dự đoán của các chuyên gia. Đúng vậy, thuế quan là một loại thuế. Nhưng chúng là loại thuế được trả, ở một mức độ đáng kể, bởi những đối tượng mà chính sách này được soạn ra để nhắm đến: đó là các nhà sản xuất nước ngoài đã được hưởng lợi nhuận quá mức và các chính phủ nước ngoài theo đuổi các mục tiêu thương mại chiến lược.

   

Nguyên tác: Economists Are Shocked, Shocked by Who Is Paying the Tariffs | Matthew Lynn | Commonplace, 23.11.2025
Người dịch: Lê Ngọc Vân

 

 

 

 

Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/thoisu/cackinhtegiakinhngac.html


Cái Đình - 2025