Phạm Ɖình Lân
Tre Trúc tâm sự
Ɖại diện cho cộng đồng Tre, Trúc, Tầm Vông, Lồ Ô, tôi có đôi lời tâm sự cùng tập thể Loài Người, Ɖộng Vật và Thảo Mộc trên hành tinh tuyệt đẹp nhưng đầy rắc rối này. Thú thật tôi không rõ về nguồn gốc của thủy tổ dòng Tre, Trúc, Tầm Vông, Lồ Ô.
Những người chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ɖại Thừa Trung Hoa và của Tây Du Ký (Xiyouji) cho rằng thủy tổ Tre, Trúc gốc ở Ấn Ɖộ và vùng núi Himalaya. Người Trung Hoa gọi nước Ấn Ɖộ cổ là THIÊN TRÚC. Trong Tây Du Ký tác giả Ngô Thừa Ân (Wu Cheng’en: 1500 - 1582) đề cập nhiều đến TÂY TRÚC, nay là thành phố Taxila trên lãnh thổ Pakistan, cách thủ đô Islamabad của nước này lối 30km.
Nhìn tổng quát thì Tre, Trúc, Tầm Vông, Lồ Ô được tìm thấy nhiều ở vùng nhiệt đới, bán nhiệt đới và khí hậu đại dương trên thế giới. Các quốc gia Nam Á như Ấn Ɖộ, Pakistan, Ɖông Nam Á từ Miến Ɖiện sang Việt Nam, Mã Lai, Singapore, Indonesia, Phi Luật Tân, các hải đảo Thái Bình Dương lên Hoa Nam, bán đảo Triều Tiên và quần đảo Nhật Bản đều có rừng Tre. Ɖiều đáng ngạc nhiên là dòng họ Tre, Trúc chúng tôi ngoan cường trên những vùng đất lạnh như miền Hoa Bắc, bán đảo Triều Tiên, bắc Nhật Bản, bán đảo Kamchatka và vài tiểu bang Hoa Kỳ như Florida, Louisiana, California, nơi có khí hậu đại dương và bán nhiệt đới.
Tre Tàu Bambusa vulgaris (Ảnh: guaduabamboo.com)
Tre thường thấy ở Hoa Kỳ mang tên khoa học Arundinaria macrosperma hay Arundinaria tecta, gia đình Poaceae. Người Hoa Kỳ xem Tre là loại “cỏ” lấn đất nên không để tâm đến việc trồng Tre như thường thấy ở Nam Á, Ɖông Nam Á, Ɖông Bắc Á và Nam Thái Bình Dương.
Tên khoa học tổng quát của Tre chúng tôi là Bambusa vulgaris, gia đình Poaceae.
Ngành hàng hải phát triển ở Tây Âu vào thế kỷ XV, XVI. Các nhà hàng hải Bồ Ɖào Nha, Hòa Lan, Tây Ban Nha, Anh, Pháp lần lượt vượt Ɖại Tây Dương, vào Ấn Ɖộ Dương, Tây và Nam Thái Bình Dương, nơi có nhiều chuỗi đảo nhỏ li ti. Người bản xứ ở đây gọi cây Tre lúc nào cũng có âm BAM, PAM hay BU, PU. Cách gọi tên cây Tre của người Âu Châu dựa theo cách gọi của dân bản địa trên các hải đảo Nam Thái Bình Dương.
Tên đảo hay quốc gia |
Tên gọi cây Tre |
Kosrae hay Kusaie |
Bamboo |
Palau |
Bambuu |
Tuvalua |
Pampu |
Indonesia |
Bamboo |
Ấn Ɖộ |
Bans |
Việt Nam |
Tre, Trúc (Hán Việt) |
Trung Hoa |
Zhu (Trúc), Zhuzi (Trúc tử) |
Phi Luật Tân |
Kawayan |
Anh |
Bamboo |
Pháp |
Bambou |
Tây Ban Nha |
Bambu |
Bồ Ɖào Nha |
Bambu |
Hòa Lan |
Bamboe |
Tre và Mía giống nhau và khác nhau như thế nào?
1- Tre và Mía đều thuộc gia đình Poaceae của Lúa, Bắp. Cây Tre và cây Mía đều có nhiều mắt và nhiều lóng. Cây tre cao từ 15m - 30m và có nhiều lóng dài từ 30cm - 50cm, dài hơn lóng Mía. Cây Mía cao từ 3m - 4m.
2- Tre và Mía không trồng bằng hột mà từ các lóng Mía hay các lóng Tre già.
3- Tre từ 20 tuổi trở lên thì ra hoa. Khi Tre ra hoa thì Tre chết. Mía từ 1 tuổi trở lên trổ cờ. Khi Mía trổ cờ thì cây Mía mất mật.
4- Lá Tre nhỏ hơn lá Mía. Cả hai đều rất bén khi chạm vào da. Lá Tre, lá Mía đều là thức ăn ngon của Trâu, Bò. Lá Tre được dùng để gói bánh ú, bánh bá chạn của người Hoa. Ɖó là thức ăn lựa chọn của loài Gấu Trúc Panda quí hiếm của Trung Hoa.
5- Cây Tre và cây Mía đều có nhiều rễ nhỏ mọc lia chia dưới gốc.
6- Cây Tre không có nhánh to mà chỉ có những nhánh nhỏ lối vài mm đường kính phủ đầy gai. Cây Mía không có nhánh.
7- Tre có Măng, Măng là con của Tre. Sự ra đời của mụt Măng cũng giống sự ra đời của cây Chuối con. Trong vòng 60 ngày Măng sẽ cao và cứng chắc để trở thành Tre. Khi đốn Mía, Mía sẽ mọc lên từ gốc cũ để có mùa Mía khác vào năm sau.
Măng Tre (Ảnh internet).
8- Cây Tre và cây Mía đều là thảo mộc miền nhiệt đới và bán nhiệt đới. Cây Tre có vẻ kiên cường hơn cây Mía vì có thể sống trong vùng ôn đới lạnh như Hoa Bắc, bán đảo Triều Tiên, miền Bắc Nhật Bản, bán đảo Kamchatka của Nga v.v.. Ở vùng ôn đới khi nhiệt độ xuống 30 độ F hay 0 độ C thì Tre mới rụng lá.
9- Về công dụng và biểu tượng, cây Tre bỏ xa cây Mía.
Tre, Trúc, Tầm Vông có nhiều dòng thảo mộc khác nhau như dòng Bambusa, Arundinaria, Phyllostachys, Dendrocalamus. Tất cả đều thuộc gia đình Poaceae.
Ở Việt Nam người ta thường đề cập đến các loại Tre sau đây:
– Tre Tàu (Bambusa vulgaris): Cây không to, vỏ láng. Măng Tre Tàu rất ngon.
– Tre Vàng: Tre không to, vỏ màu vàng trông đẹp mắt.
Tre vàng (Ảnh: baldur-nederland.nl), trái; và Tre Mạnh Tông (Ảnh internet)
– Tre miểu vì thường được trồng trước các miểu. Tre cao, trông yếu ớt.
– Tre Mạnh Tông (Dendrocalamus flagellifer): Lá to, măng to rất ngon.
– Tre gai (Bambusa arundinacea): Gọi như thế vì mỗi mắt Tre đều có gai cứng và nhọn.
Cây Tre Gai (Ảnh internet), trái; và Tre Lồ Ô (Ảnh: bambooland.com.au)
– Tre Lồ-Ô (Schizostachyum zollingeri): Tre cao trên 20m. Người ta đốt tre Lồ-Ô để lấy tro làm muối ăn. Ɖó là cách tạo muối của người đi rừng thiếu chất Iodine trong muối biển.
– Tre Là-Ngà (Bambusa sinospinosa – Tre gai Trung Hoa): Tre gai màu vàng, xa xa trông như Mía vàng. Tre Là-Ngà còn được gọi là Tre Mỡ, Tre Dây.
Tre Là Ngà (Ảnh internet), trái; và Tre Bông (Ảnh internet)
– Tre Bông (Phyllostachys bambusoides) hay Trúc Lệ. Loại Tre này càng già vỏ cây Tre càng xuất hiện nhiểu bông rất đẹp.
– Tre Bè: Tre kết thành bè ngâm nước không bị mọt ăn.
Tầm Vông là thân thuộc của cây Tre. Cây Tầm Vông đặc ruột và nhỏ hơn cây Tre. Cây cao từ 5m - 10m. Tên khoa học của Tầm Vông là Dendrocalamus strictus. Người Anh gọi Tầm Vông là Solid bamboo; Male bamboo (Tre Ɖực); Calcutta bamboo (Tre Calcutta. Calcutta là tên thành phố lớn ở Ấn Ɖộ). Người Indonesia gọi Tầm Vông là Bambu Batu, Thái Lan: Mai phai, Việt Nam: Trúc Côn (Hán Việt).
Tầm Vông (Ảnh internet)
Trúc là thân thuộc gần của Tre. Trúc bọng ruột như Tre. Cây Trúc nhỏ và thấp hơn Tre và Tầm Vông. Các loại Trúc thường thấy là:
1- Trúc Ɖen Phyllostachys nigra cao lối 4,5m.
Trúc Ɖen (Ảnh: gardenplantsonline.co.uk)
2- Trúc Vàng Phyllostachys aurea
Trúc Vàng (Ảnh: wilsonbrosgardens.com), trái; và Trúc Lùn (Ảnh: mustila.fi)
3- Trúc Lùn Sasa humilis cao lối 1m - 2m.
4- Trúc Sao Phyllostachys edulis cao đến 20m.
Trúc Sao (Ảnh: wilsonbrosgardens.com)
Tre, Trúc là biểu tượng của sự khiêm tốn, liêm khiết, trung thành, linh hoạt và trường thọ. Ɖó là đức tính thanh cao của người quân tử Ɖông phương.
Ɖối với người Ɖông Phương, Tre, Trúc, Tầm Vông có công dụng đa dạng trong đời sống. Tre, Trúc, Tầm Vông được dùng làm nhà để ở; làm giường để nằm; làm máng xối để lấy nước mưa; làm bàn ghế để ngồi uống trà; làm dây để cột buộc; làm đinh để đóng vào gỗ Tre và Tầm Vông; làm guốc để mang; làm đòn gánh, thúng, rổ để gánh và chứa đựng hàng hóa; làm đũa để ăn cơm; làm đũa bếp để xới cơm; làm cây ghim để ghim thịt nướng; làm tăm để xỉa răng; làm chân nhang để lễ bái Trời Phật, Thần Thánh và Tổ Tiên; làm cần câu để câu cá; làm thúng, rổ, nia, tràn, liếp bánh tráng; làm nồi để nấu cơm; làm bồ để chứa lúa thóc; làm chiếu Tre để ngủ; làm nóp để thay mùng ngăn ngừa muỗi chích; làm giỏ để bắt và nhốt cá, cua; làm khí giới để đánh giặc (cung tên, Tầm Vông vạt nhọn; Phù Ɖổng Thiên Vương nhổ bụi Tre phá tan giặc Ân trong cổ sử Việt Nam; hầm chông Tre trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam v.v.). Trong truyện chưởng của nhà văn Kim Dung (Jin Yong, tên thật là Zha Leang Yong – Tra Lương Dung, 1924 - 2018) thường mô tả các đại Cái Bang dùng gậy Tre. Ɖó là võ khí thông thường dễ kiếm, dễ tìm nhưng rất lợi hại trong chiến đấu.
Ngày xưa người Trung Hoa viết sử, sách trên các thẻ Tre. Về sau người ta biết dùng Tre, Trúc để sản xuất ra giấy. Ɖó là Trúc chỉ.
Măng Tre, Trúc, Tầm Vông đều là thức ăn ngon trong các gia đình nông thôn ở Ɖông Nam Á. Người ta ăn Măng tươi, Măng chua (Măng lên men), Măng khô, Măng xào với thịt heo hay thịt bò. Măng tươi luộc ăn với cá chiên giầm mắm nêm là món ăn của dân nông thôn ở miền Nam Việt Nam. Măng kho cá mòi, cá hấp. Món ăn cao cấp nấu với Măng là món Măng hầm giò heo hay thịt vịt xáo Măng.
Người Trung Hoa luộc Măng tươi để khử độc chất taxiphyllin C14H17NO7 trong Măng tươi rồi xào với thịt heo hay thịt bò cùng hành, tỏi, cần tây với dầu hào, tương ngọt.
Người Nhật ăn Măng tươi, Măng khô và Măng chua (lên men). Họ thích ăn Măng với mì Ramen. Món ăn Măng được người Nhật ưa thích nhất là món Takenoko no tosani như Măng hầm ở nước ta (Takenoko: Măng, con của Tre). Họ thích xào Măng với nấm Shiitake tức Nấm Hương Lentinus edodes, gia đình Marasmiaceae (cũng có tên khác là Omphalotaceae).
Người Triều Tiên trộn Măng với salad hay chiên xào với thịt (thịt bò hay thịt heo như người Trung Hoa).
Người Ấn Ɖộ dùng Măng tươi kết hợp với nhiều thực vật khác với thịt (ngoại trừ thịt bò) để nấu một loại cà-ri Măng gọi là Bamboo shoots Sabzi.
Ở Việt Nam, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Ɖộ, Trúc được dùng để làm ống tiêu, ống sáo (Flute) để thổi trong các ban nhạc.
Trên Cao Nguyên Nam Trung Bộ đồng bào thiểu số Jarai, Bahnar dùng nhiều ống Tre để làm ra đàn T’rưng (Bamboo Xylophone, tạm dịch Trúc Mộc Cầm). Âm thanh của đàn T’rưng rất phong phú, vui nhộn và dễ thương. Hiện nay người ta thử dùng Tre để làm đàn bầu, một nhạc khí độc đáo của Việt Nam. Ɖó là đàn độc huyền, nghĩa là đàn chỉ có một dây mà thôi.
Ɖàn T’rưng của người Bahnar (Ảnh: Wikipedia)
Tre, Trúc được dùng làm nhạc cụ ở Thái Bình Dương và nơi người bản địa sống ở Trung và Nam Mỹ. Phi Luật Tân nổi tiếng với nhạc cụ Bungkaka (Idiophone: âm thanh tự vang) làm bằng Tre, Trúc. Tre được dùng trong điệu nhảy sạp (Bamboo dancing hay Tinikling), một điệu múa nhảy dân gian thịnh hành trên quần đảo Phi Luật Tân.
Thái Lan và Lào có Khaen Isan (ta âm thành KEN), tạm xem như một phong cầm với âm thanh nhịp nhàng và rộn ràng.
Thổ dân miền núi Andes ở Nam Mỹ có “khèn” Siku mà người Tây Ban Nha gọi là Zampoña làm bằng nhiều ống Trúc kích thước khác nhau ghép lại v.v.
Tre, Trúc là chủ đề trong bức tranh tứ thời tượng trưng cho vẻ đẹp, sự chịu đựng và sự thanh cao của các loài hoa và thảo mộc tiêu biểu cho bốn mùa trong năm.
Mùa |
Hoa hay thảo mộc |
Xuân |
Mai |
Hạ |
Lan |
Thu |
Cúc |
Ɖông |
Trúc |
Mai-Trúc (Mai ở đây là hoa Mai vàng, hoàng Mai Ochna harmandii, gia đình Ochnaceae), Chim Sẻ và Cành Trúc đều là đề tài của các họa sĩ và nghệ nhân ngành sơn mài nổi tiếng một thời trong tỉnh Thủ Dầu Một, tức Bình Dương sau này.
Xưa kia hầu hết thôn xóm ở nước ta đều có Tre để phân định ranh giới thiên nhiên giữa làng này với làng khác và giữa nhà này với nhà kia. Cây Tre là thảo mộc lấn đất rất nhanh nên việc trồng Tre cũng là chủ đề tranh chấp về ranh đất trong xã thôn.
Nhất hộ hôn
Nhì điền thổ
Ɖó là hai đề tài tranh chấp thường thấy trong xã hội Việt Nam ngày xưa.
Trong tín ngưỡng nhân gian người ta không trồng Tre trước nhà như đã không trồng cây Si (Ficus pendula, gia đình Moraceae), cây Dâu Tằm (Tang Mộc – Morus alba, gia đình Moraceae), cây Gạo (Mộc Miên Bombax ceiba, gia đình Malvaceae) và cây Bồ Ɖề (Ficus religiosa, gia đình Moraceae) (1).
Trong ngôn ngữ Việt Nam có những cụm từ liên quan đến Tre, Trúc như: Tre tàn Măng mọc; Tre khóc Măng; Tre lại trói Tre; Măng mọc có lứa, người ta có thì; Măng không uốn, thành Tre làm sao uốn được; cao như Tre Miểu; Trúc Lâm Thất Hiền (bảy văn nhân đời nhà Tấn (Jin Dynasty) bên Trung Hoa: Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Ɖào, Hướng Tú, Lưu Linh, Nguyễn Hàm và Vương Nhung) v.v.
Ca dao Việt Nam có câu:
Trồng Tre, trồng Trúc, trồng Dừa
Muốn nên cơ nghiệp thì chừa làng văn.
*
Ai đi đường ấy hỡi ai
Hay là Trúc đã nhớ Mai (2) đi tìm.
*
Miệng ăn Măng Trúc, Măng Mai (3)
Những Giang cùng Nứa lấy ai bạn cùng.
*
Trúc xinh Trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh
*
Trúc xinh Trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh
Trong Lục Vân Tiên của Ɖồ Chiểu (Nguyễn Ɖình Chiểu) có câu:
Tiên rằng: ông quán chớ cười
Ɖây đà nhớ lại bảy người Trúc Lâm.
Trong truyện Kiều có câu:
Một nhà sum hợp Trúc Mai
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
*
Làm thân trâu ngựa đền nghì Trúc Mai.
Tre, Trúc chúng tôi sống đạm bạc ở những vùng hẻo lánh xa chốn phồn hoa đô hội. Loài người ở phương Ɖông nói về chuyện chúng tôi rất nhiều.
Ở Trung Hoa có chuyện ông Mạnh Tông (Meng Zong) hiếu đễ với mẹ. Mẹ ông bịnh nặng nhưng thèm ăn Măng Tre vào mùa không có Măng. Ông Mạnh Tông ngồi khóc bên bụi Tre. Bụi Tre cảm động vì lòng hiếu thảo của ông nên cho một mụt Măng to lớn nhô lên khỏi mặt đất cho ông đem về nuôi mẹ. Măng Mạnh Tông được xem là Măng to lớn và ngon trong cộng đồng Tre, Trúc.
Tương truyền rằng khi vua Thuấn (Emperor Shun, trị vì từ 2255 tr. Tây Lịch - 2195 tr. Tây Lịch) (3) thời cổ Ɖại Trung Hoa băng hà, hai bà hoàng hậu là Nga Hoàng (Ehuang) và Nữ Anh (Nuying), hai công chúa con của Ɖế Nghiêu (Emperor Yao, trị vì từ 2358 tr. T.L. - 2258 tr. T.L.) được gả cho Ɖế Thuấn khóc nức nở. Nước mắt của hai vị hoàng hậu này rơi vào Tre hóa thành hoa. Tre ấy gọi là Tre Bông hay Trúc Lệ.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1495 - 1585) tả cuộc sống nhàn nhã và thanh bần với cảnh:
Thu ăn Măng Trúc, đông ăn Giá
Xuân tắm hồ Sen, hạ tắm ao.
Năm 1922 vua Khải Ɖịnh sang Pháp dự cuộc đấu xảo ở Marseille cùng với hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy tức vua Bảo Ɖại sau này. Nhân dịp này nhà cách mạng Phan Châu Trinh lên tiếng đả kích vua Khải Ɖịnh. Nhóm Ngũ Long (4) ở Pháp soạn vở kịch bằng tiếng Pháp tựa đề Le Dragon de Bambou (Con Rồng Tre) dưới bút hiệu Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn, Le Patriote) để đả kích và chế giễu vua Khải Ɖịnh.
Tre, Trúc, Tầm Vông chúng tôi sống ở nông thôn, gần gũi với các dân tộc ở Ɖông Nam Á, Nam Thái Bình Dương và Trung, Nam Mỹ. Trong Hán-Việt người Việt Nam dành cho Tre, Trúc, Tầm Vông chúng tôi nhiều tên gọi mỹ miều đại cương như:
***
Tre, Trúc, Tầm Vông chúng tôi sinh ra trong rừng rú và được vun trồng trong làng mạc các quốc gia miền nhiệt đới, bán nhiệt đới hay khí hậu đại dương. Chúng tôi phục vụ cho loài người ở nông thôn trong thời kỳ sự phát triển của khoa học và kỹ thuật còn thô sơ. Từ thế kỷ XVIII về sau loài người ở phương Tây bắt đầu phát triển với chiến tranh cách mạng Hoa Kỳ (1776), cách mạng 1789 ở Pháp, cách mạng đại nghị chế và cách mạng kỹ nghệ ở Anh, Tre, Trúc, Tầm Vông chúng tôi vẫn được xem là “cây cỏ nông thôn” hay “cây cỏ mọc hoang”. Người Âu-Mỹ trồng Tre, Trúc trong vườn hay trong chậu để làm cảnh chớ không dùng gỗ Tre, Trúc để làm ra vật hữu dụng trong đời sống hàng ngày. Họ cũng không ăn Măng Tre, Trúc, Tầm Vông như người Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Ấn Ɖộ, Thái Lan v.v.
Ɖịnh số an bài của Tre, Trúc chúng tôi là sống ở miền sơn dã hay nông thôn với cách sinh sản khác thường so với đại đa số các anh chị Thảo Mộc khác. Tuổi thọ của Trúc xê dịch từ 20 - 25 năm. Khi các chị ra hoa (thụ thai) thì cũng là lúc các chị qua đời! Tre, Trúc suốt đời chỉ lẩn quẩn ở những nơi hoang vu vắng vẻ. Vai trò của họ trong đời sống của loài người càng ngày càng sụt giảm. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và những phát minh mới của loài người làm cho Tre, Trúc chúng tôi không còn quan trọng như xưa. Xưa kia nhà tranh vách đất cần có cọc Tre làm sườn để đắp vách đất trộn với rơm, rạ. Bây giờ nhà gạch, xi măng cốt sắt thay thế vách đất, khung Tre. Tre, Trúc không thể nào cạnh tranh với Nylon, Plastic, bê-tông cốt sắt được. Bàn ghế, giường, ván làm bằng Tre không thể đẹp và bền bỉ hơn bàn ghế, giường, ván làm bằng Gõ, Trắc, gỗ Sồi, gỗ Cherry,… hay giường sắt, giường đồng. Giấy làm từ gỗ Tre không tốt bằng giấy làm từ gỗ Thông và các loại cây lá xanh quanh năm của miền ôn đới.
Ɖời sống của Tre, Trúc chúng tôi ngày càng thu hẹp vì sự gia tăng dân số nhanh chóng của nhân loại, sự kỹ nghệ hóa và đô thị hóa. Ɖường xá ở các thành phố đều được trồng cây để có bóng mát và thanh lọc không khí. Cây Tre có gai, lá Tre nhỏ nên cây Tre không có bóng mát và không tạo vẻ mỹ quan cho phố thị như các anh chị Thảo Mộc khác. Tre không có cơ hội nào để sống ở chốn phồn hoa đô hội.
Con người phấn đấu để thoát cảnh nghèo khó. Số nhà tranh vách đất sụt giảm khi đời sống của dân chúng được cải thiện. Giường Tre được thay thế bằng divan hay giường làm bằng gỗ quí hay bằng kim khí. Ghế Tre được thay thế bằng ghế gỗ, ghế sắt hay sang trọng hơn là ghế trường kỷ quí giá thời Richelieu hay Louis XIV v.v.. Cầu Tre, cầu Dừa được thay thế bằng cầu sắt, cầu đúc.
Thời đại nguyên tử, súng AK-47, M-16, hỏa tiễn liên lục địa che lấp sự lợi hại của cây gậy dành cho các Cái Bang. Võ khí sáng chế từ Tre, Trúc, Tầm Vông đi vào quá khứ lịch sử nhưng không mất hẳn tác dụng và sức mạnh tiềm tàng của chúng. Chúng nói lên sức mạnh tinh thần, lòng quả cảm, ý chí quyết thắng của những người khao khát độc lập, tự do, công bằng và nhân ái.
Tôi thành thật xin lỗi toàn thể quí vị Thảo Mộc không vui trước những nhận xét tiêu cực của tôi về tiến trình phát triển vượt bực của loài người. Có những sự thật không nên nói ra dù đó là sự thật 100%. Nhưng các bạn Thảo Mộc ơi!
Trời có sáng có tối
Người có thịnh có suy.
Sinh-Diệt, Hợp-Tan, Thịnh-Suy, Ɖắc Thời-Bất Phùng Thời, Ɖắc Ɖịa hay không Ɖắc Ɖịa, Ɖắc Nhân Tâm-Thất Nhân Tâm… đều tuân theo luật tự nhiên mà diễn biến. Dù có cầu, có xin, có thương, có ghét, chúng vẫn lặng lẽ đến và đi một cách bình thản.
Ɖể chấm dứt những lời tâm sự hôm nay, tôi xin thông báo cùng quí vị một khám phá mới của một Guru Ấn Ɖộ sống ẩn dật trên dãy Himalaya về dược tính trị liệu bá bịnh của cây Tre. Nghe nói khám phá này độc đáo lắm nên được các nhà y học Ɖông-Tây lưu ý và được các nhà báo nổi tiếng trên thế giới loan truyền. Có chương trình mời vị Guru Ấn Ɖộ này sang London, Paris, Berlin, Washington, Philadelphia, Boston, Beijing, Moscow, Tokyo để trình bày về sự khám phá độc đáo này. Biết đâu đã đến lúc các nước Âu-Mỹ hối hả trồng Tre, Trúc, Tầm Vông để khai thác hoạt chất độc đáo của dòng họ nổi tiếng bọng ruột và chịu đựng cảnh nắng lửa mưa dầu, giá băng tuyết phủ này để cứu nhân loại khỏi bịnh tật khiến cho Ɖịa Cầu gia tăng số người trường thọ. Nhưng than ơi! Không ai biết ông Guru ấy ở đâu trong dãy Himalaya để mời ông lên phi cơ phản lực Tây du hay Ɖông du. Lại có tin đồn ông Guru tịch khẩu, tịch cốc, viên tịch và hóa đá trong hang động không có số trong dãy Himalaya. Sự biến mất của ông Guru khiến cho hy vọng và niềm vui của nhân loại trở nên què quặt, hụt hỏng.
Cám ơn quí vị Thảo Mộc lắng nghe lời tâm sự của dòng Bambusa, gia đình Poaceae của chúng tôi. Chúc quí vị một ngày vui trọn vẹn. Xin đừng quá vui đến cười mà chết như ông Trình Giảo Kim. Xin tránh cảnh cười người hôm trước hôm sau người cười. Cũng đừng quá buồn để viết khúc nhạc Buồn não nuột (La Tristesse) như ông Chopin.
Trưởng Lão Tre Lồ-Ô Phước Long, Việt Nam
Phạm Ɖình Lân, F.A.B.I.
_________
Chú Thích:
(1) Cây Bồ Ɖề nên trồng trước các Phật tự hơn là trồng trước nhà.
(2) Mai ở đây không phải là hoa Mai (Ochna) mà là một loại Tre, Trúc có Măng ăn được như Măng Tre, Măng Trúc.
(3) Theo truyền thuyết, Ɖế Nghiêu (Emperor Yao trị vì từ năm 2358 tr. T.L. đến 2258 tr. T.L.) không truyền ngôi cho con vì thấy họ hư hỏng, ăn chơi trác táng. Hoàng đế nghe dân chúng khen Yao Zhong Hua (Diêu Trọng Hoa tức Ɖế Thuấn sau này) là người nổi tiếng hiếu đễ với cha và kế mẫu mặc dù bị cha ruột, kế mẫu và các em dị bào hiếp đáp, xử tệ. Diệu Trọng Hoa (Yao Zhong Hua) là người đắc nhân tâm, có tài tổ chức, tài thuyết phục và được quần chúng mến chuộng yêu vì. Ɖế Nghiêu thử tài và đức của Diệu Trọng Hoa bằng cách gả hai công chúa E Huang (Nga Hoàng) và Nu Ying (Nữ Anh) cho ông với một số tiền hồi môn khiêm tốn. Diệu Trọng Hoa thành công trong việc dùng số tiền hồi môn khiêm tốn này để kinh doanh sinh lợi nhanh chóng. Ɖế Nghiêu truyền ngôi cho Diệu Trọng Hoa, một người có tài và có đức, thay vì truyền ngôi cho những người con ăn chơi trác táng, bất tài và bất nhân.
(4): Nhóm Ngũ Long ở Pháp sau đệ nhất thế chiến gồm các ông: Phó bảng Phan Châu Trinh, tiến sĩ Phan Văn Trường, kỹ sư Nguyễn Thế Truyền, nhà luật học Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành tức Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này. Nhóm này viết những bài xã luận đấu tranh cho độc lập Việt Nam bằng tiếng Pháp dưới bút danh tập thể Nguyễn, Le Patriote dịch thành Nguyễn Ái Quốc. Bút hiệu này thay thế bút hiệu Nguyễn Ố Pháp (Nguyen Qui Hait les Français) cực đoan, quá khích. Phan Châu Trinh đậu phó bảng Hán học. Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh đều có bằng đại học Pháp. Ông Nguyễn An Ninh nổi tiếng vì đậu ba chứng chỉ cử nhân luật trong một năm (trước kia cử nhân luật – licence en droit – chỉ có ba chứng chỉ mà thôi). Ɖó là một biệt lệ dành cho sinh viên xuất sắc bị gián đoạn việc học trong thời kỳ đệ nhất thế chiến bùng nổ. Hai ông Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đều có Pháp tịch.
Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/khoahockythuat/tretructamsu.html