Topa


Rừng thiêng mất lối.

.

Vượt qua con suối nhỏ mà tôi chưa từng nhìn thấy bao giờ. Lúc này mặt trời vừa đứng bóng. Lúc này đang giữa trưa. Ông Trường dừng chân và lấy tay quệt mồ hôi trên trán. Ông vừa thở hổn hển vừa nhìn về phía sau. Tôi đang đi phía sau và đi gần đến bên ông. Ông nhìn tôi và cười thật tươi. Nụ cười rạng rỡ của người chiến thắng. Sau khi cột ‘con Mai’ – tên con khỉ – vô thân cây, ông nói cho tôi nghe khi tôi đến đứng bên ông:

“Lần này chắn chắn chúng ta sẽ thoát ra khỏi khu rừng… thiêng này. Hôm nay cũng đúng mười ngày rồi đấy bạn Trọng à.”

Tôi mệt nên ngồi dưa vào tảng đá để thở. Cả hai người chúng tôi mồ hôi chảy ra ướt đẫm cả thân ông. Quần áo của chúng tôi bây giờ đã rách bươm, rách tơi tả. Không có vải dư và kim chỉ, chúng tôi không thể làm gì được giữa rừng già này.

Ông Trường và tôi gục đầu xuống dòng nước và uống cho đỡ khát. Uống xong ông và tôi cùng nhìn vô cái la bàn nhỏ mà tôi đã mua ở chợ trời Sàigòn từ… không biết bao nhiêu năm về trước, nhưng vẫn còn sử dụng được. Vẫn với vẻ mặt hớn hở, ông nói cách rất tự tin:

“Lần này tôi cam đoan với bạn Trọng, chúng ta sẽ thoát chứ không như lần trước, lại quay về cái hang của chúng ta nữa đâu.”

Tôi nói cho ông vui, chứ tôi hoàn toàn không tin tưởng:

“Mình đi đúng hướng thì phải đến đúng mục tiêu chứ sao. Hy vọng lần này ông dẫn đường sẽ không bị như tôi. Sẽ không xảy ra như lần trước.”

Nói rồi tôi nhắm đôi mắt lại. Tôi cần yên tĩnh trong giây lát vì sẽ lại tiếp tục cuộc hành trình tìm về với xã hội loài người.Tôi cần yên tĩnh vì tôi vẫn luôn luôn bị mang nặng trong đầu về những điều huyền bí của chuyến đi lần trước. Chuyến đi trước do tôi dẫn đường, thế mà đúng sau mười ngày, sau khi cả hai đi một đường thẳng từ điểm khởi hành. Vượt qua biết bao chướng ngại vật. Thế mà… không hiểu nổi tại sao, rồi cả hai chúng tôi lại có mặt ngay trước cái hang rộng. Cái hang mà chúng tôi đã ở trong đó từ mấy năm qua. Chuyện không thể tin được thế mà nó đã xảy ra.

Lần trước, sau khoảng… một hai năm, cả hai người chúng tôi đã sinh sống trong một cái hang rộng trong vùng rừng núi này. Cả hai người chúng tôi tin là, cái hang rộng đó thuộc chủ quyền quốc gia Lào. Chúng tôi không muốn chết trong rừng như những con thú hoang. Do đó chúng tôi đã quyết định tìm đường về với xã hội loài người, tìm về với đồng bào.

Sau khi định hướng, chúng tôi đã thẳng tiến đi về phía trước mặt mà chúng tôi tin rằng, hướng đó là hướng có quốc gia Thái Lan. Mười ngày vượt qua mọi chướng ngại vật để đi cho đúng hướng thì, tối ngày hôm đó, cả hai người chúng tôi cùng bàng hoàng sửng sốt và sợ hãi đến đứng chết lặng mà tay chân như sắp rụng rời cả ra. Chúng tôi không ngờ chúng tôi lại… đang đứng đúng ngay địa điểm xuất phát. Nghĩa là tối ngày thứ mười khi mặt trời vừa xuống để chuẩn bị một đêm nữa trong rừng già thì, cái hang rộng mà hai người chúng tôi đã sống qua rất nhiều năm… đang hiển hiện trước mặt chúng tôi.

Lần đó thì ông Trường đã trút tất cả sự bực bội lên tôi. Ông đã mạt sát tôi nào là: “Anh chỉ là hàng binh sĩ mà lại không chịu nghe lời tôi. Dù gì tôi cũng từng là Trung sĩ. Cũng thuộc hàng Hạ sĩ quan với nhiều kinh nghiệm… học tập cách đi và sống trong rừng. Tôi đã từng làm phụ tá huấn luyện viên dạy môn: “Thoát hiểm mưu sinh” trong trường sĩ quan Thủ  Đức. Anh là người mang nhiều mặc cảm tự ti nên hễ có dịp là muốn cho người khác biết tài, nhưng thật ra anh lại là người chẳng có tài cán gì cả...”

Bao nhiêu lời cay độc do bực tức, ông đã trút ra hết và tôi chỉ biết im lặng vì sự thật đã hiển hiện ra cả rồi thì còn nói năng gì được nữa mà nói chứ.

Tôi tuy chỉ là người lính không có cấp bậc gì cả, nhưng cũng từng là người lính của binh chủng Biệt Kích, một binh chủng chuyên hoạt động trong rừng rậm nên tôi đã được huấn luyện sử dụng la bàn rất kỹ. Nhưng, tôi vẫn không thể nào hiểu được chuyện gì đã xảy ra.

Sự vui mừng của ông Trường ngày hôm nay, ngày thứ mười của cuộc hành trình mà phía trước mặt vẫn là cánh rừng rậm thì... có lẽ tôi đã nhắm sai hướng đi thật. Hoặc, có thể là cái la bàn của tôi, mà ông Trường đang cầm trong tay đã hư thật rồi. Ông Trường lên tiếng hỏi tôi:

“Mình tiếp tục lên đường chứ Trọng?”

Tôi mở mắt ra nhình chung quanh và nói:

“Đi, mình đi tiếp đến một chỗ nào mình muốn dừng thì dừng lại nấu ăn và nghỉ đêm.”

Nói nấu ăn cho có vẻ vậy thôi, chứ thường là cây và lá mà ‘con Mai’ăn là chúng tôi ăn. Từ bao nhiêu năm nay chúng tôi còn sống được là nhờ thịt thú rừng và các loại cây lá. Bất cứ cây lá, hoặc trái cây rừng nào mà con khỉ ăn được, là con người đều ăn được hết. Có một loại chim ăn được trái mã tiền mà không bị gì cả. Tôi nhớ trước thời gian Miền Nam mất, một hôm tôi được ra phố thị, tình cờ tôi gặp quyển tạp chí… nếu tôi không nhớ lầm thì quyển đó là Kiến Thức Ngày Nay. Trong quyển tạp chí này có bài viết về trái mã tiền. Vì là lính rừng… rú, nên tôi đã đọc kỹ và nhớ luôn cho đến nay. Nếu đầu tôi còn minh mẫn thì tôi nhớ là, “loại trái này rất độc bởi nó là nguồn chính của ancalloit có độc tính cao như strychnin và brucin, được sử dụng trong y học.” Bởi lý do đó nên chúng tôi đã nuôi một con khỉ từ mấy năm qua và, để làm vui lòng ông Trường, tôi không muốn để ý tại sao ông đặt tên nó là Mai. “Mai là tên của người con gái đầu đời tôi yêu. Đồng thời Mai cũng có nghĩa là khỉ.” Ông Trường nghĩ tôi không hiểu tại sao ông đặt tên cho con khỉ như vậy, nên ông đã giải thích. Tôi không thấy có gì quan trọng với cái tên của một con khỉ. Theo phương ngữ Nam Bộ còn có hai danh từ khác nữa dùng để chỉ con khỉ là "Khọn" và "Mai".

Chúng tôi đang tìm chỗ để dừng chân nghỉ ngơi. Chúng tôi đã đi như vậy tính đến hôm nay đã được mười một ngày rồi. Ông Trường luôn tỏ ra hăng hái có lẽ cũng vì cho rằng mình đã nhắm đúng hướng đi. Ông hỏi tôi với vẻ không một chút mệt nhọc:

“Bạn Trọng, đi qua khỏi đám cây đằng trước, mình sẽ nghỉ ở đó đêm nay nhé?”

Tôi gật đầu mà không trả lời ông vì tôi đã quá mệt. Trong khi chúng tôi vẫn còn len lỏi trong đám cây có dây leo chằng chịt thì ‘con Mai’ bỗng la hét và nhìn thẳng về phía trước như mừng rỡ. Ông Trường và tôi cùng cố gắng bước nhanh về phía trước vì tin ‘con Mai’ đã nhìn thấy… nhà cửa hoặc xóm làng. Sau khi chúng tôi len lỏi ra khỏi đám cây đầy dây leo thì cả hai người chúng tôi cùng đứng sững lại nhìn mà không hiểu làm sao lại có thể có chuyện kỳ quái như vậy được. Tôi thấy ông Trường đang há hốc cái miệng ra và không một chút cử động nào. Hai con mắt của ông cứ nhìn trừng trừng về phía trước, về phía cái hang... của chúng tôi. Ông đứng chôn chân tại chỗ như bị trời trồng và đồng thời cả thân mình ông đang run lên từng chập như người đang bị cơn sốt rét hành hạ vậy. Ông bị xúc động mạnh nên ông đã đưa cả hai tay lên ôm mặt và khóc rống lên như một đứa trẻ con. Đồng thời ông cứ lập đi lập lại câu nói:

“Ôi!Thượng Đế ôi. Sao lại có chuyện như thế này xảy ra được vậy. Ôi! Thượng Đế ôi. Sao lại có chuyện như thế này xảy ra được vậy. Ôi!Thượng Đế ôi sao....

Tôi ôm ông cho ông bớt run và nói bên tai ông những lời an ủi:

“Bình tĩnh lại ông Trường à. Tôi nghĩ có lẽ tại cái la bàn của chúng ta đã... chỉ sai hướng đó thôi… ông à.”

“Ôi!Bạn Trọng ôi. Làm sao mà chỉ sai hướng được chứ hả bạn. Tôi nghĩ có lẽ... có lẽ tôi đã sơ ý khi nhắm hướng chứ làm sao mà cái la bàn này lại chỉ sai được.”

Tôi cũng đang lo âu và sợ hãi. Rõ ràng không thể nào có chuyện trùng hợp giữa hai lần như vậy được. Nhưng, tôi vẫn cố bình tĩnh và nói như đã không có chuyện gì hệ trọng xảy ra.

“Lần tới cả ông và tôi cùng nhắm hướng đi. Làm như vậy chắc chắn sẽ không có chuyện sai trật được đâu.. Một người lo tìm hướng… suốt cả mười ngày nhiều khi cũng bị… mệt óc. Ông nghĩ tôi nói có đúng không?”

Câu nói đó của tôi đã làm cho ông bình tĩnh lại đôi chút. Ông nói cách quả quyết. Nhưng câu nói có vẻ không còn được bình thường như những ngày qua:

“Thì đúng như vậy bạn Trọng à! Bạn Trọng nói đúng lắm. Lần sau cả hai người cùng nhắm hướng thì chắc chắn không bao giờ còn sai trật vào đâu được, phải vậy không bạn Trọng?”

Tôi chưa kịp trả lời thì ông lại rên rỉ:

“Thượng Đế ôi... Bạn Trọng ôi. Có bao giờ bạn nghĩ là chúng ta đã bị... bị... bị…”

Tôi hiểu ông muốn nói gì. Nhưng vì tôi cũng không muốn sự sợ hãi sẽ làm cho tôi bị nhụt chí và trở nên hèn nhát, nên tôi ngắt lời ông và nói khác đi:

“Cái la bàn không bị hư đâu ông Trường à. Thôi, đừng nghĩ lung tung nữa cho thêm nhức đầu. Bây giờ thì hai anh em mình cùng vào lại trong hang và nấu cái gì nóng ăn cho ấm. Cả mấy ngày đi trong rừng cũng mệt và lạnh lắm rồi ông à.”

Ông Trường bước đi, nhưng vì ông quá thất vọng nên bước đi xiêu vẹo ngã nghiêng như người bệnh, mà cái đầu của ông thì cứ đảo quanh khắp khu rừng với cái mặt vẫn còn vẻ hoảng hốt vì sợ. Ông  bước theo sau tôi vào trong hang nhưng miệng ông thì cứ nói lảm nhảm những câu gì đó mà tôi thì lại không muốn nghe.

Có lẽ ông Trường cảm thấy hối hận vì đã mạt sát tôi trong lần đi trước đây, nên bây giờ đây ông bắt tôi phải ngồi yên một chỗ để ông nấu món súp thịt rắn cho tôi ăn. Gọi là món súp cho ra vẻ theo kiểu của người Tây phương vậy thôi, chứ thật ra đó chỉ là món thịt rắn luộc không có muối hay gia vị gì cả.

Từ nhiều năm nay chúng tôi chưa hề được thưởng thức đến hột muối hay viên đường nào cả nên cũng thèm lắm. Thèm quá xá đi.

Nhìn ông Trường đang bận rộn với món súp làm tôi nhớ đến món súp kem gà xé ở nhà hàng Victoria ở trung tâm Sàigòn mà tôi thường đến đó ăn mỗi cuối tuần. Nhìn ông, tôi nhớ lại cái ngày mà tôi đã gặp ông. Ngày đó ông sợ tôi giết ông vì ông lầm tưởng tôi là tên cướp. Tôi cũng sợ ông vỉ tưởng ông là… cướp rừng. Sau khi cả hai cùng qua khỏi cơn bỡ ngỡ và sợ hãi lúc ban đầu, để rồi chúng tôi đã thông cảm nhau để đi đến sống chung với nhau hầu tìm đường ra khỏi khu rừng già.

Miền Nam Việt Nam mất, tôi bị lâm vào con đường cùng. Tôi không thể tìm được một công việc gì để sinh sống. Cũng may tôi chưa có vợ có con nên có phần bớt lo lắng. Chiến tranh đã đến thời điểm cao độ nên tôi phải đi hành quân thường xuyên. Mỗi năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày, tôi ở trong rừng hết ba trăm năm mươi ngày thì làm sao còn có thời giờ để tính đến chuyện… riêng tư. Tôi sống lang thang ở Sàigòn, và, tôi đã gặp lại ba người bạn cùng đơn vị năm xưa. Chúng tôi bốn đứa cùng họp nhau lại để trở về khu rừng xưa tìm vàng. Ngày còn chinh chiến, chúng tôi chiến đấu bên Lào. Đơn vị của chúng tôi bắt được một nhóm người Lào đang đi tìm vàng. Khám xét trong người của họ chúng tôi đã tìm thấy rất nhiều vàng. Chúng tôi biết địa điểm đó nên nay chúng tôi quay lại nơi đó với hy vọng sẽ… đổi đời. Ngày đó vượt biên giới quá dễ dàng vì phong trào vượt biên vượt biển đang rầm rộ do chính nhà cầm quyền tổ chức để thu vàng. Chúng tôi đã vượt biên qua đất Lào mà không gặp một trở ngại hay khó khăn nào cả. Sau nhiều ngày đi trong rừng, đi chưa đến địa điểm thì ba người bạn trong nhóm lần lượt qua đời vì bị sốt rét. Còn một mình, tôi không thể tiếp tục nên muốn nhân dịp này vượt biên giới qua Thái Lan xin tỵ nạn. Tôi không ngờ lúc đi sao quá dễ dàng. Bây giờ muốn ra khỏi khu rừng sao lại quá trắc trở quá nhiêu khê. Tôi… loay hoay trong rừng mất hai năm mà vẫn không tìm được lối ra. Tôi bị hỗn loạn tinh thần một thời gian ngắn vì cô đơn và vì đói nên có lúc tôi như bị mất hết khái niệm về thời gian. Tôi không biết mình đã ở trong rừng bao nhiêu năm… Cho đến một ngày kia tôi đi đến bên dòng suối nhỏ. Tôi đang bụm hai tay lại để lấy nước ở một khe núi có dòng nước thật nhỏ chảy ra. Tôi giật mình khi nghe một tiếng ô thoát ra vẻ ngạc nhiên xen lẫn sợ hãi. Tôi quay đầu lại nhìn thì thấy một người mình trần da ngâm đen đang đứng trước một bụi cây cách chỗ tôi khoảng chục bước. Có lẽ vì không ngờ gặp tôi nơi đây nên ông la lên tiếng ô rồi đứng yên tại chỗ. Có lẽ ông nhìn thấy tôi đeo bên mình con dao ngắn và cầm một cây dao thật dài, nên, ông đưa cả hai tay lên trời như đầu hàng. Phản ứng theo thói quen tự vệ, tôi chỉa thẳng cây mã tấu vào ông. Tôi nghĩ ông là tên cướp người Lào vì ông có nước da đen và gương mặt đầy râu nên nhìn thấy cô hồn vô cùng. Tôi chưa có phản ứng nào tiếp theo thì ông đã nói và nói tiếng Việt Nam rất rõ:

“Đừng giết, tôi xin đầu hàng!”

Tôi nghĩ ông là an ninh của Lào. Hồi xưa tôi đã từng gặp và nói chuyện với những người Lào thuộc tổ chức của Tướng Vang Pao có học tiếng Việt và nói tiếng Việt rất sõi. Tôi hỏi nhưng cây mã tấu vẫn đưa thẳng vô người ông:

“Ông có bao nhiêu người?”

“Hiện tại chỉ một mình tôi thôi.”

“Ông làm gì… trong rừng?”

“Tôi xin đầu hàng.”{

“Tôi hỏi, ông làm gì trong rừng?”

“Tôi đi tìm tự do. Tôi bị lạc đường. Hai người bạn kia đã chết rồi. Hiện tại chỉ còn một mình tôi thôi.”

Tôi dựng cây dao đi rừng vô vách núi và ngồi bệt xuống đất, đồng thời tôi ra dấu cho ông cùng ngồi xuống.

“Ông… ông tên gì?”

“Tôi tên Trường. Tôi đi tìm tự do và… chỉ còn mỗi mình tôi thôi. Hai người bạn của tôi đã chết rồi”

“Ông ở trong rừng bao lâu rồi?”

“Hơn một năm. Cuối năm 1979, tôi và hai người bạn vượt biên tìm tự do. Trên đường đi chúng tôi bị nhóm người Lào Cộng bắt. Chúng tôi tưởng sẽ bị bỏ xác trong rừng rồi. Không ngờ mấy ngày sau nhóm Lào Cộng đã tìm thấy nhóm người Lào tự do của Vang Pao nên đuổi đánh. Nhân dịp đó chúng tôi chạy thoát và chạy vô sâu trong rừng... cho đến nay. Tôi đang đi tìm nước và thức ăn thì gặp anh. Tôi sống trong một cái hang… cũng gần đây thôi. Tôi… tôi mời anh về chỗ tôi cho biết.”

***

Hôm nay nữa là ngày thứ mười một khi chúng tôi cùng ‘con Mai’ đang tiếp tục cuộc hành trình tìm về với đồng loại sau khoảng một tháng nghỉ ngơi và, sau hai lần thất bại.

Cứ mỗi một chặng đường ngắn, cả hai người chúng tôi cùng dừng lại ở một điểm mà cả hai đã lựa chọn, để rồi lại tiếp tục chọn một điểm dừng chân đến mới. Lần thứ ba này, chúng tôi cũng lấy y hướng như hai lần trước. Nhưng, tôi thật sự vẫn không hiểu được tại sao những nơi chúng tôi đi qua lại hoàn toàn xa lạ và không có một dấu tích gì về hai lần đã đi qua trước kia. Cái la bàn rõ ràng là vẫn còn rất tốt thế mà ba lần đều lấy cùng một hướng, vậy mà cả ba lần cảnh vật trên đường đi đều khác nhau là tại sao, thì tôi vẫn không sao hiểu được.

Chúng tôi vẫn bước đi với những bước chân dò dẫm cho đến chiều ngày hôm sau, tức ngày thứ mười hai. Khi mặt trời sắp khuất sau rặng núi phía xa thì, ‘con Mai’ lại la hét và nhìn ngay về phía trước mặt như mừng vui. Ngay khi mà cả hai người chúng tôi đang vẫn tiến tới phía trước mặt trong nỗi lo sợ thì… cái hang rộng lại hiện ra sờ sờ trước mặt chúng tôi.

Lần này thì ông Trường đã hoàn toàn mất hết bình tĩnh khi ông ôm lấy hai vai tôi và khóc rống lên thật thê thảm. Ông Trường cứ khóc mặc dù tôi cố nói như thế nào ông vẫn khóc và ông còn vật vã tỏ ra đau khổ lắm. Vừa khóc ông vừa kể lể:

“Trời ôi! Ôi Thượng Đế ôi. Vậy là tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại mặt người thân yêu nữa rồi… hu hu hu! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại quê hương của tôi nữa rồi.Trời ôi là trời! Hu hu hu! Hu hu hu!... Em ôi! cứu anh với em ôi.”

***

Sau lần thứ ba bị thất bại, ông Trường và tôi xem như phải chấp nhận số phận. Chúng tôi bắt đầu kết lá cây để che thân. Chúng tôi phải cố tạo cho nhau những niềm vui để sống qua ngày chứ không hề có một lúc nào giận nhau. Ông Trường kể cho tôi nghe những quân trường mà ông đến phục vụ. Câu chuyện này ông đã kể không biết bao nhiêu lần rồi. Vậy mà mỗi lần kể ông vẫn hào hứng nói như lần đầu. Tôi phải nghe cho… đỡ buồn. Ông nói:

“Tôi sinh ra đời là để làm phụ tá huấn luyện viên. Tôi chưa bao giờ phải gác một phút nào cả… kể từ khi ra trường, chứ đừng nói là đi hành quân. Bạn Trọng biết không. Tôi làm phụ tá huấn luyện viên tổng cộng năm quân trường. Trường sĩ quan Thủ Đức là đơn vị cuối cùng. Hôm đó theo lẽ tôi có giờ huấn luyện ngoài bãi tập. Nhưng, tin tức cho biết Cộng quân sẽ đánh vô quân trường vì mặt trận Long Khánh đã vỡ từ mấy ngày rồi. Chiều ngày 29 tháng tư Cộng quân đã có mặt tại tuyến đầu của quân trường… Có bao giờ tôi lại có thể tưởng tượng được cảnh Cộng quân tiến sát quân trường sĩ quan đâu…”

Tôi đã nhắm mắt ngủ nên không biết ông còn kể tiếp hay làm gì.

***

Hôm qua tôi đi thật xa để tìm măng. Trên đường đi tôi tình cờ nhìn thấy năm cái ụ đất cao nằm trong thung lũng nhỏ có nhiều nước; cách cái hang của chúng tôi cũng hai cây số. Khu này chúng tôi đã đi đến rồi nhưng không hề thấy năm cái ụ đất có lẽ vì có nhiều loại cây gai mọc cạnh những cây tre. Hôm nay tôi đưa ông Trường đến những ụ đất. Đứng từ xa nhìn đến các ụ đất, tôi nói:

“Ông Trường à. Có lẽ chỗ có năm cái ụ đất là… Ông có nghĩ đó là năm cái mộ không?”

Ông Trường nhìn đến đó rồi gật gật đầu:

“Tại sao từ bao lâu nay anh em mình không hề nhìn thấy mấy cái ụ đất đó vậy?

“Tôi cũng thắc mắc như ông nhưng rồi cũng không có câu giải đáp.Tôi đang đi tìm măng và nấm thì tình cờ tôi nhìn thấy có năm cái mô đất đó.Tôi đếm được tổng cộng là năm cái mà tôi đoán đó là… nghĩa địa chứ không biết chắc lắm.”

“Bạn Trọng có nghĩ là chúng ta...”

Ông Trường không nói tiếp nhưng hai con mắt của ông đã lộ vẻ sợ hãi. Sau ba lần tìm đường về với thế giới của con người, nhưng đều thất bại, cũng vì cả ba lần cảnh vật trên đường đi đều diễn ra khác nhau sau khi chúng tôi lấy cùng một hướng đi đã làm cho chúng tôi quá sợ hãi. Từ đó cho đến nay cũng đã hơn một năm trôi qua rồi. Chúng tôi đã yếu dần vì thiếu ăn và… hình như cũng đã già rồi thì phải. Chúng tôi không còn sức nên không dám thực hiện một chuyến đi nào nữa.

Bất ngờ ông Trường nói:

“Chắc chắn phải có điều gì huyền bí chứ không thể tự nhiên như vậy được.”

Ông Trường nói nhưng lại không nhìn tôi mà cứ nhìn trừng trừng về hướng những ụ đất trông mặt ông như ngây như dại.

Từ khi thất bại lần thứ ba cho chuyến tìm về với con người cho đến nay, chúng tôi vẫn luôn nhìn lên bầu trời để mong có một chiếc máy bay trực thăng nào bay qua là lập tức chúng tôi sẽ nổi lửa lên cầu cứu dù đó là máy bay của bất cứ quốc gia nào. Nhưng, hơn một năm qua mà không bao giờ chúng tôi nhìn thấy một chiếc máy bay nào bay qua cả. Khu rừng này chúng tôi vẫn tin là của quốc gia Lào. Chúng tôi ao ước được gặp con người vô cùng, dù đó là ai. Chúng tôi bị thiếu thốn về vật chất nhưng rồi cũng qua hết. Chỉ có sự cô đơn và lạnh lẽo… sẽ giết chết dần chúng tôi. Có một điều thật may mắn đến… kỳ diệu, đó là, chúng tôi chưa hề bị bệnh một lần nào cả. Cám ơn Thượng Đế đã che chở cho chúng tôi.

Ông Trường thỉnh thoảng kể lại chuyện gia đình của ông. Mỗi lần ông kể lại làm cho tôi buồn khi nhớ đến thủ đô Sàigòn và những ngày lang thang trên những con đường giữa thủ đô. Ông Trường cũng thường hay mơ… mộng khi nói hoài với tôi điều mà tôi nghĩ khó có thể thành sự thật. Ông nói:

“Khi nào chúng mình được giải thoát khỏi nơi đây. chắc chắn tôi sẽ mời bạn Trọng đến gia đình tôi… cho biết. Vợ của tôi sẽ làm món cá lóc nấu chua ăn với bún ngon bất biết đi bạn à.”

Nói xong câu, ông và tôi cùng nuốt nước miếng. Ông có vợ và một con cùng người mẹ già. Ông vẫn tin cách chắc nịch là, vợ ông sẽ không bao giờ xa ông cho dù không nhận được tin ông. Có những đêm tình cờ thức giấc, tôi đã nhìn thấy ông thủ dâm.Tôi cũng vậy. Tôi cũng phải thủ dâm vì... dù sao ông và tôi cũng là hai con người. Hai con người tầm thường với những nhu cầu thật tầm thường.

Ông Trường lên tiếng đưa tôi trở về với hiện tại

“Bạn Trọng à, có lẽ tụi mình cũng nên đến đó xem ra sao chứ chẳng lẽ cứ đứng đây sao.”

“Phải như vậy thôi chứ không thì mình cứ suy nghĩ hoài đau đầu lắm.”

‘Con Mai’ leo lên một cái mô đất rồi ngồi yên trên đó. Hôm nay con khỉ sao hiền quá. Nó không chạy nhảy như mọi khi mà ngồi im nhìn chúng đào xới năm cái mô đất lên.

Trời vừa đứng bóng thì chúng tôi đã đào xong năm cái mô đất. Mỗi mô đất có một bộ xương người đã tan nát nhiều vì bị nước. Trong năm bộ xương có một bộ xương với dáng nằm nghiêng và co lại cùng cái xương sọ đã bị bể nát.

Ông Trường nhìn quanh quất và hai con mắt của ông láo liên như sợ có người đang lẩn quẩn đâu đây. ‘Con Mai’ khi nhìn thấy mấy bộ xương liền la hét và trèo lên cây cao rồi ngồi luôn trên đó như cũng có vẻ sợ.

Ông Trường và tôi đã gom tất cả các xương lại rồi chôn cất cẩn thận trên gò đất cao khô ráo rồi mới trở về nơi ở của chúng tôi vì trời cũng đã về chiều.

Đêm hôm đó, không phải chỉ mình tôi, mà cả ông Trường cũng được năm người hiện về báo mộng: “Năm 1937. Chúng tôi thuộc nhóm năm người đi buôn lậu thuốc phiện. Sau nhiều lần thành công. Lần cuối cùng chúng tôi bị truy kích. Sau tám tháng trốn tránh trong rừng. Chúng tôi quyết định trốn luôn trong rừng chứ không về nữa. Chúng tôi chọn nơi đây để khai hoang trồng trọt và sinh sống lâu dài. Nhưng, chúng tôi gặp sự chống đối của nhóm người Hời – tức người Chàm – tại đây. Đây là vùng đất thuộc Ai-Lao và là khu đât sinh sống lâu đời của nhóm dân người Hời bị người Việt Nam thời còn Vua Chúa đánh đuổi. Mất nước, họ đến đây lập nghiệp thì bị dân Lào đánh đuổi tiếp nên họ tản mác đi nhiều nơi. Khi chúng tôi bị nhóm người Hời ở đây xua đuổi, họ chỉ còn khoảng ba mươi người. Vì quá thất vọng và sợ hãi, chúng tôi đã lỡ tay giết chết người vợ của vị pháp sư và cũng là trưởng nhóm người Hời. Sau đó chúng tôi vì sợ trả thù nên đã nhanh chóng tìm cách trốn thoát và chấp nhận ra đầu thú. Chúng tôi đã đi được hai tuần và tưởng là sẽ thoát. Nhưng, chúng tôi không thể nào thoát ra khỏi khu rừng này được. Chúng tôi đã thử đi rất nhiều lần nhưng đều thất bại, bởi vì cuối cùng rồi thì chúng tôi lại cũng trở về y chỗ cũ. Chúng tôi bị kiệt sức vì đói,vì bệnh, và, cũng vì không có thuốc men nên dần dần chúng tôi người trước người sau đã lần lượt qua đời. Các ông đã có lòng chôn cất chúng tôi tử tế nên, để trả ơn các ông, tôi chỉ cho các ông cách thức để thoát ra khỏi nơi này, thoát ra khỏi lời nguyền của nhóm người Hời đầu tiên đến đây và bị giết.

Đúng vào giữa đêm có trăng tròn. Hai ông phải giết ngay con vật mà hai ông đang nuôi rồi uống cho hết máu của nó. Phải uống cho đến khi con vật thật sự không còn một giọt máu nào. Đợi cho đến khi mặt trời vừa ló dạng là hai ông phải lập tức nhắm cả hai con mắt lại. Nhắm mắt chứ không phải bịt. Rồi cứ thẳng hướng trước mặt mà bước đi. Cứ thẳng hướng phía trước mặt mà bước đi chứ đừng sợ gì cả. Trên đường đi hai ông sẽ nghe được những âm thanh rùng rợn. Nhưng, cứ bước thẳng hướng mà đi. Đi hoài đi cho đến khi nào thình lình hai ông bị rớt xuống một con suối thì, lúc đó hai ông được mở mắt ra và rồi cứ lội theo dòng nước và sẽ thoát. Phải làm đúng như vậy thì mới mong thoát khỏi ra khu rừng này được.

Nên nhớ một điều rất quan trọng là: Nếu trong khi đang di chuyển mà mở mắt ra, dù chỉ mở hé một chút xíu thôi thì tức khắc hai ông sẽ bị trở nên điên loạn và, chỉ trong một vài phút thôi là cái đầu của hai ông sẽ tự bể nát ra từng mảnh vụn.”

Năm ngày sau có trăng tròn. Đúng thời điểm cho chúng tôi lên đường về với xã hội. Chúng tôi vô cùng đau lòng khi phải giết ‘con Mai’ để uống máu nó. Nó không ngờ chính tay tôi đã đập lên đầu nó bằng khúc cây khi nó đang ngủ. Bởi vì, trong hai người, tôi thương yêu nó nhất. Giết nó rồi tôi cứ bị ám ảnh mình là tên sát nhân giết người. Tôi xem ‘con Mai’ là bạn thân.

***

Ông Trường không còn trên cõi đời này nữa chỉ sau một tháng tìm về với gia đình. Nhưng, gia đình của ông đã vượt biển. Không còn nhà, không còn người thân thích ruột thịt, ông đến sống dưới gầm cầu. Tình cảnh của tôi cũng gần giống như của ông. Nhưng, tôi đã ‘đứng’ lên được là nhờ sự giúp đỡ của bạn bè.

Tôi thỉnh thoảng vẫn bị giật mình giữa đêm khuya và mồ hôi thì tuôn ra làm ướt đẫm người như tắm. Có lẽ còn lâu lắm tôi mới lấy lại được sự quân bình trong tâm hồn.

Sau một thời gian tạm lấy lại sự yên tĩnh của bản thân, tôi quyết định viết lại câu chuyện này. Khi tôi viết, tôi như thấy những con suối chảy từ những thác nước cao đổ xuống. Tôi cũng thấy những cái hang động sâu mà chúng tôi cũng đã đi vô trong. Tôi như đang hưởng mùi hương rừng tỏa thơm ngào ngạt… Tất cả như hiện ra trên những trang giấy. Các trang nhật ký trong đầu tôi đã lần lượt hiện ra rất đầy đủ. Và, điều đó cho tôi biết rằng , mình vẫn còn minh mẫn thì phải ghi lại, cho dù người đọc sẽ cho đây là câu chuyện hoang đường. Tôi phải viết để nhắc mình rằng; Những gì tôi viết, không phải là những điều duy nhất khó tin, nếu không có chứng từ làm bằng. Có những điều mà con người hoàn toàn không tin, nhưng vì lỡ từ lâu rồi vẫn leo lẻo nói nên muốn người khác tin… “Cho dù một trăm năm sau chưa biết đã xảy ra chưa.”

Hôm nay là ngày 19 tháng 6 năm 20... Bên kia bờ đại dương người Việt Tự Do sẽ làm lễ tưởng niệm cho một quá khứ hào hùng và có thật!… Cũng như câu chuyện của tôi là có thật. Nhưng, có cần thiết không khi phải mong cho những ai đọc câu chuyện này đều sẽ tin, đây là câu chuyện có thật?

.

Topa (Hòa Lan)

 

Direct link: http://caidinh.com/trangluu1/vanhocnghethuat/van/rungthiengmatloi.htm


Cái Đình - 2021