Nguyễn thanh Hùng
Ra đi, nhìn lại
Tặng tất cả các anh chị em trên cùng chuyến ghe 35 năm trước
Thứ tư 30-04-1975
Mọi sự có lẽ bắt đầu từ ngày 30 tháng Tư năm 1975. Nhưng trước đó hơn tháng, cả Sài gòn đã xôn xao.
Trong cái sân rộng của trường Lasan Taberd, sư huynh Thiện bắt lũ học sinh lớp đệ thất, đệ lục chúng tôi phải đứng thật lâu trong cái sân nắng chang chang để nghe ông lên lớp. Chả biết sư huynh nói gì, nhưng hôm sau đó là được nghỉ học, ở nhà chơi vô thời hạn.
Tôi và lũ bạn trong xóm rủ nhau ra đứng xem rừng người đứng trước cửa Đại sứ quán Mỹ gần nhà và những tòa đại sứ Pháp, Anh gần đó. Cả nhà tôi đầy người trong gia đình đến tá túc, tranh cãi, ăn uống, hút thuốc thảo luận, lớn tiếng hoặc thì thầm, bàn chuyện đi hay ở. Vài ngày gần cuối tháng Tư thì lũ trẻ con được lệnh chuẩn bị hành lý, mỗi đứa mang theo một cái túi đựng những thứ yêu quý nhất. Thế nhưng đến giờ phút chót, bác ruột tôi, Bùi văn Chấn, thiếu tá thẩm phán biệt khu thủ đô, người có trách nhiệm và có khả năng đưa tất cả mọi người di tản, quyết định ở lại. Ông bảo, đại khái, ‘Dù gì đi nữa, chiến tranh sắp chấm dứt. Thời xây dựng nước, chế độ nào cũng cần người dân’.
Sự lạc quan này được ông trả một cái giá rất đắt không lâu sau đó: 9 năm tù cải tạo ở Yên Bái, Vĩnh Phú rồi Xuân Lộc. Tôi sẽ không bao giờ quên gương mặt hốc hác của bác gái và bà ngoại tôi những năm tháng sau đó, mỗi lần được đi thăm nuôi bác ở tận ngoài Bắc xa xôi. Nhớ luôn cả những giỏ đồ ăn tuyệt vời mà bác gái gói ghém rất kỹ lưỡng bằng những cái bao ny lông tái sinh đen xì, những món chả lụa, ruốc, mứt trái cây mà tất cả mọi người quanh năm luôn thèm thuồng.…
Gần 20 năm sau gặp lại ở Houston, Texas, tôi mới chính tai nghe bác kể lại ngày tháng gian lao ở trại cải tạo miền Bắc. Những hôm trời lạnh mưa phùn ướt át, gió rét lạnh căm, người tù cải tạo vẫn chân không đi gánh phân bón cây. Rồi mùa hè gió lào đổ lửa, người tù cải tạo vẫn phải leo núi, lên rừng đốn măng. Khổ ải khác gì người lính bị đầy lên mạn ngược thời phong kiến... Trấn thủ lưu đồn, ngả gỗ trên rừng, than thân rằng khổ, biết phàn nàn cùng ai….(1). Rùng rợn nhất là những cái chết tự nguyện đầy hào khí và vô cùng kinh khủng của những người bạn tù. Trong căn nhà nhỏ ngoại ô Houston nước Mỹ, bác thú nhận, nước mắt đầm đìa, ‘Quyết định ở lại của bác là một sai lầm nghiêm trọng’.
Mùa hè 1979
Thạnh học chung lớp với tôi, lớn hơn tôi một tuổi. Đám con trai lớp 11AC là một nhóm quậy. Ngoài giờ học thì tập tành hút thuốc, đánh đàn ghi-ta ca hát nhạc vàng. Suốt giờ học chỉ lo nghịch phá thầy cô, hay chọc ghẹo đám con gái ngồi dẫy bàn trên. Ngày Thạnh bị gọi đi nghĩa vụ, chúng tôi tổ chức họp mặt, đàn địch hát xướng như không có chuyện gì xảy ra. Thạnh là vua ghi-ta. Nó mà cầm đàn, đi lead bài The House of The Rising Sun thì đứa nào ồn ào nhất cũng phải im lặng. Mấy ngón tay gầy gò của nó như bay trên những phím đàn. Sau ba tháng đào luyện ở Núi Xanh, nó trở về, mặt mày đen nhẻm nắng quân trường, đi đứng quơ tay quơ chân như bơi trong bộ áo quần bộ đội thùng thình. Nó mang về một khẩu súng colt. Và chúng tôi thay phiên nhau ôm khẩu colt, mân mê cái lạnh lạ lùng của thép súng, rồi dí súng vào đầu nhau, bóp cò kiểu cao bồi. Bữa tiệc gia đình tiễn Thạnh sang Kampuchia, bố Thạnh cho phép lũ học sinh chúng tôi uống bia thả giàn. Đó là lần đầu tiên cả đám tôi, Hinh, Thạnh, Mẫn, Linh… biết thế nào là say rượu bia.
Chưa tới một tháng sau, ngay trận đánh đầu tiên ở Samac, Thạnh đã tử nạn. Nó đạp nhằm mìn, nổ banh xác, theo tin của đồng đội nhắn lại. Bố Thạnh nài nỉ tôi đi theo bác sang Kampuchia. ‘Dù gì đi nữa, mình cũng phải qua đó đưa xác thằng Thạnh về nhà, cháu ạ. Cháu đi với bác nhé’. Tôi nhớ mãi gương mặt của người cha mất đứa con trai đầu lòng mà ông thương yêu rất mực, thương đến mức quyết định không cho nó đi vượt biên. Tôi sẽ không bao giờ quên đôi bàn tay có móng tay đen xỉn vì dầu nhớt của ông chủ tiệm thợ tiện góc đường Nguyễn An Ninh, cứ nhắc đến tên thằng con trưởng là lại run lên bần bật. Tôi xin lỗi bác đã không dám theo bác sang Kampuchia. Mãi hơn 30 năm sau, đứng rất lâu ở tượng đài tưởng niệm những người lính trẻ ở Pnom Penh, Nam Vang, tôi mới có thể khóc cho Thạnh, người bạn thời trung học mới 18 tuổi đã chết vội trong cuộc chiến tranh biên giới. Tôi bùi ngùi nghĩ đến bao nhiêu mái đầu xanh khác đã rơi rụng vô cùng phí phạm trong vô vàn những cuộc chiến tranh cứ mãi tiếp diễn ở đất nước. Có bao nhiêu những người cha, người mẹ đã phải lau nước mắt vĩnh biệt con cái? Tre khóc măng… Nước mắt chảy ngược… Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên (2). Tin Thạnh từ trần, làm cả đám chúng tôi quyết định bỏ học, không đứa nào chịu đăng bộ đội nữa.
Thứ bẩy 2-08-1980
Số phận đưa đẩy tôi đến Hải Sơn, châu thành Bà Rịa Vũng Tàu. Trốn nghĩa vụ mãi ở Sài gòn, quanh quẩn suốt ngày trong căn nhà bít bùng của bà ngoại tôi ở đường Lê văn Duyệt sau nầy đổi thành Cách mạng tháng Tám, tôi cuồng chân. Những cuộc vượt biên hụt, có lần bị bắt rồi nhốt vào nhà tù Bà Rịa, đầu cạo trọc lóc càng làm tôi túng quẫn, điên đầu. Trong khi chờ đợi vượt biên tiếp, tôi xin về ở chung với o tôi ở Hải Sơn. Tôi mang gạo về đóng góp, rồi cũng học đi cuốc đất, làm rẫy, làm ruộng như mọi người.
Số là chỉ vài năm sau 30 tháng Tư 1975, gia đình o dượng Hồng, em ruột ba tôi đã di tản từ Nghệ An vào Nam lập nghiệp ở Hải Sơn. Một vùng đất gần biển, đất đai không phì nhiêu gì, nhưng so với những mảnh đất cằn cỗi xứ Nghệ, thì đấy là cả một thiên đường nhỏ. O kể, không di cư vào Nam những năm 1953, 1954 là một quyết định sai lầm, mà ông bà nội tôi, cai tổng và địa chủ, đã phải trả một cái giá rất đắt trong những năm tháng cải cách ruộng đất điên cuồng ở miền Bắc và Trung. Ông tôi đã bị tra tấn, hành hạ đến bức tử trong trại giam. Bà tôi cũng chết theo sau đó không lâu, không rõ vì bị bỏ đói hay tự quyên sinh. Chính o tôi đã phải thuê người đến cõng xác ông bà đem về để chôn cất.
Ấp Hải Sơn lúc đó chưa có điện, có nước máy. Nhà o tôi ở lợp tranh, vách đất. Buổi tối ngọn đèn dầu một bấc thắp lên, ánh sáng lờ mờ. O tôi nằm trên chõng tre, thỉnh thoảng kể chuyện hay hát ru. Giọng Nghệ nặng nề, tiếng ru đơn điệu, buồn thảm một nỗi sầu mênh mang. Trên cái phản gỗ mắc mùng 4 người ngủ, tôi nằm nghe tiếng ru của o, thỉnh thoảng được đệm thêm tiếng con tắc kè bông trên trần nhà. Tắc kè… tắc kè…. Sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, tôi chưa bao giờ biết nhìn kỹ một bông lúa, dù hàng ngày vẫn ăn cơm gạo. Ở với o, tôi học được cách trồng lúa, từ ươm thóc giống, gieo mạ, đến nhổ mạ cấy lúa vào đất ruộng đã được cày lên. Khi bừa ruộng, tôi đi sau theo trâu bò cày ruộng, biết la to ‘tắc, tắc, rì rì…’ để điều khiển trâu bò đi sang trái, sang phải theo hàng. Nhờ thế, tôi mới biết ‘lúa là mồ hôi đọng’ (3).
Khi làm ruộng hay trồng bắp trên rẫy, tôi được nghe kể về những chuyến vượt biên từ bãi Hải Sơn. Cứ vài ngày, lại có những chuyến xe đò dừng lại bên đường xa lộ Sài gòn - Vũng Tàu, thả xuống hàng đoàn người thành phố mặt mày sợ sệt, e dè lấm lét. Tôi nhận ngay ra khuôn mặt của chính tôi, em trai tôi, cậu tôi, trên khuôn mặt của những người vượt biên đó. O tôi bảo, ông Tâm hàng xóm là người lo bến bãi. O đang tìm cách gửi gắm ông giúp tôi đi vượt biên. O nói nay mai o sẽ lên Sài gòn để hỏi ý kiến ba má tôi.
Buổi tối hôm 2 tháng Tám 1980, tự dưng nóng lòng, tôi đi qua nhà ông Tâm. Tôi mang theo vài vật dụng mà tôi vẫn mang theo trong mỗi lần vượt biên ở Sài gòn: Cuốn lịch nhỏ, chiếc răng nanh heo rừng có khắc tượng Phật, con dao nhíp em trai tôi tặng. Tôi gói các món đó trong một cái túi lính. Hôm đó trăng sáng mờ nhạt, những con đường làng quê im lìm. Tôi đến đứng trước nhà ông, một trong những căn nhà ngói hiếm hoi, trong nhà không đèn đuốc, tối om. Tôi muốn quay về nhà. Nhưng từ sâu thẳm trong lòng tôi, có một tiếng gọi nhỏ nhắc nhở tôi, thúc giục tôi phải kiên nhẫn chờ đợi. Nhất định mọi chuyện phải xảy ra như thế. Đó là những giây phút hiếm hoi mà định mệnh lên tiếng, cái phán quyết chắc nịch của số phận. Tôi cứ đứng đợi như thế thật lâu cho đến mãi về khuya, không còn nghe tiếng chó sủa bâng quơ đâu đó nữa, thì có bóng người xịch cửa bước ra khỏi nhà. Tôi nhận ngay ra dáng ông Tâm, rắn rỏi, nhanh gọn. Ông đi rất nhanh về phía đường lộ. Tôi lấm lét đi theo sau ông cách khoảng chừng 10 thước, rón rén chân thật nhẹ. Chúng tôi tiến ra khu ấp phía bên kia đường, gần chỗ cống nước kêu cống Đôi. Ông bước vào một căn nhà ngay gần cống. Tôi lại đứng bên ngoài đợi. Chỉ trong chốc lát, lại thấy ông đi ra, dáng đi tất tả, nóng vội. Chúng tôi bước nhanh trên bờ đê nhỏ, đường đất trơn như thoa mỡ. Tôi thu hết can đảm, tiến nhanh đến gần ông và nói,
– ‘Bác Tâm ơi, bác giúp cháu.’ Người đàn ông quay phắt người lại, giật mình hỏi,
– ‘Ơ, mày muốn cái gì?’
– ‘Bác giúp cháu, cho cháu đi. Ba má cháu sẽ trả ơn bác.’ Thay câu trả lời, ông ta đột nhiên giơ tay đấm móc hết sức lực vào màng tai tôi. Bị cú đánh bất ngờ, tôi ngã chúi, úp mặt xuống ruộng. Cú đấm vô cùng mạnh mẽ làm lỗ tai tôi lùng bùng, đầu óc tôi tê dại. Mắt tôi hoa lên, trong bóng đêm tối gần như không còn trông thấy gì nữa. Nhưng như một cái lò xo, tôi bật ngay dậy. Tôi lập lại, giọng nài nỉ,
– ‘Bác Tâm ơi, bác giúp cháu’.
Tôi không nhớ rõ chuyện gì, điều gì đã xảy ra trong những giây phút ngắn ngủi sau đó, cho dù tôi cố moi trí nhớ nghĩ về những giây phút này nhiều lần trong mấy ngày qua... Ông Tâm đã tiếp tục đánh tôi, với ý đồ cho tôi gục ngã để tiếp tục đi, và tôi cứ ôm đầu đi theo, rên rỉ xin được giúp? Hay chúng tôi đã nói về chuyện thanh toán tiền nong, o tôi sẽ liên lạc với ba má tôi đem tiền lên trả công cho ông nếu tôi đi vượt biên được? Hay ông đang cần người để giúp một tay lo việc xăng dầu bến bãi? Chỉ biết là sau đó, ông Tâm cho phép tôi đi theo ông. Ông nói vắn tắt, đại khái,
– ‘Thôi được, mày theo tao. Đi lấy dầu. Mày gánh dầu ra ghe. Còn vượt biên được hay không là phúc phận của mày…’
Chúng tôi đi tiếp, lần nầy nối đuôi sát cạnh nhau trên con đường đê. Chúng tôi đến một căn nhà, kéo ra một cái xe bò trên đó có những can dầu được dấu dưới những bao tải hay rơm rạ gì đó. Tôi làm bò kéo xe, còn ông Tâm đẩy xe. Chúng tôi đẩy cái xe có hai bánh gỗ niền sắt to tướng đi trong bóng đêm, trên con đường sáng lờ mờ dưới ánh trăng như hai bóng ma. Tôi đi theo lời ông Tâm, ông bảo ‘trái’ thì tôi kéo xe rẽ trái, ông bảo ‘phải’ thì tôi rẽ phải. Y hệt con trâu, con bò đi cày ruộng. Đi một lúc đến một căn nhà đèn đuốc tối om, những can dầu được chia ra cho một số thanh niên khác đang núp trong đó. Tôi cũng được giữ một can dầu, nặng trĩu. Chúng tôi được dặn phải khiêng cái can dầu đó ra ngoài ghe lớn.
Tôi nhớ phải ngồi chờ khá lâu trong căn nhà đó cho đến lúc được lệnh đi ra ngoài. Chúng tôi im lặng đi ra hướng bờ sông. Đó là một trong muôn vàn những con lạch to nhỏ vòng quanh sông Thị Vãi đổ ra cửa biển Bà Rịa Vũng Tàu. Tôi nhớ tôi đã vấp ngã nhiều lần trên con những con đường đê trơn trọt, vì chân không, và thùng dầu rất nặng phải xách theo. Đến bãi, tôi giao thùng dầu cho một người khác và được lệnh đứng xắp hàng đợi chung với những người gánh dầu khác, chờ mọi người (khách của chủ ghe?!) lên ghe nhỏ ra ghe lớn hết rồi mới đến lượt mình. Nhưng không hiểu chuyện gì đã xảy ra mà tôi không được phép lên ghe nhỏ. Định mệnh đã xui khiến tôi quyết định nhảy ùm xuống rạch và bơi ra ghe lớn. Trong trí nhớ, tôi đã phải bơi một lúc khá lâu và khó khăn, vì vẫn mặc quần dài và áo. Lúc bơi đến gần, thì có người lấy cây sào đưa ra cho tôi nắm và kéo tôi đến sát bên ghe lớn. Tôi leo lên ghe, chui vào ngồi trên bục gỗ ở hầm máy, người ướt nhẹp, lạnh run nhưng trong lòng xao động, hồi hộp khôn tả. Vừa lúc đó thì tài công cho nổ máy, ghe chạy quanh co một lúc trong những con lạch. Chừng khoảng 1 tiếng sau thì thấy ghe tấp vào bên một bụi cây. Có người cầm đèn pin soi từng khuôn mặt. Đến phiên tôi, anh hỏi,
– ‘Người của ai đây?’
Tôi đáp, ‘Em là người của ông Tâm, lo bến bãi’.
Anh soi đèn pin cho phép tôi ở lại, còn một số người khác bị đuổi khỏi tàu. Đó có thể là những người dân Hải Sơn đi canh me, hay là người của những nhóm khác trong ban tổ chức. Sau này được nghe kể lại, thì thật ra chẳng ai biết chính xác ai là ai. Người lo tàu, người lo chỗ đậu, người lo bãi, người lo dầu, đủ thứ chuyện, mà tất cả đều phải trong bí mật. Việt Nam 35 năm trước chỉ có xe đạp và những quán cóc lề đường, không điện thoại, nghi kỵ và đói khát triền miên, làm sao có thể liên lạc nhanh gọn chính xác với nhau được!
Chủ nhật 3-08-1980
Tàu lướt ra khỏi cửa sông Bà Rịa khi trời đã sáng, nhưng may mắn không bị công an hải khẩu giữ lại. Chúng tôi ngồi chen chúc dưới hầm ghe, không khí ngột ngạt, choáng váng. Bà con nôn ọe vì say sóng, vì mùi nước biển và mùi tôm cá mục rữa trộn lẫn nhựa dầu hắc trét ghe. Ra tới biển lớn, khi nắp hầm được mở, chúng tôi mới dám thò đầu ra ngửi gió biển lồng lộng thổi. Tôi nhớ mãi hình ảnh dãy núi Bà Rịa xa mờ phía chân trời. Biển mênh mông, bát ngát. Lúc đó, tôi không thể nào ngờ rằng mãi 11 năm sau, với một quốc tịch khác, như một du khách Hà Lan, tôi mới có dịp nhìn lại ngọn núi xanh và thánh giá tượng chúa Giê Su trên núi Vũng Tàu. Và tôi biết, chuyến ra đi này là một trong những quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời mình, thay đổi nhất với hậu quả sâu xa mà tôi chẳng bao giờ có thể thấu hiểu trọn vẹn được.
Thứ hai 4-08-1980
Đói và khát. Đã gần hai ngày không được ăn, nhưng tệ hại hơn là không được uống. Nắng gay gắt rồi trời chợt mưa. Khi cơn mưa đến, chúng tôi há miệng ra hớp nước mưa như những con cá trồi lên mặt nước hớp bong bóng. Nhiều cánh tay chòi ra, bàn tay khum lại để hứng nước mưa. Có vài người trải một tấm khăn ny lông trên nắp hầm để hứng nước mưa. Nhiều bàn tay nháo nhào giữ lấy một góc tấm khăn, những cái miệng há ra hớp lấy chút nước chảy qua những lỗ nhỏ trên tấm khăn. Những giọt nước trời cho hiếm hoi rớt xuống bao cái miệng khô hết vì muối biển, như một miếng đất lâu ngày hạn hán, nứt nẻ. Đói khát làm mọi người điên cuồng. Bản năng sinh tồn dẫn đến nhiều tranh giành, gào thét lớn tiếng. Cơn dông bất chợt qua đi, nhưng cái đói cái khát vẫn còn nguyên vẹn đó. Tôi ngâm tay dưới mặt nước biển, thỉnh thoảng hớt được một cọng rong hay bất kì một cái gì, một con sứa, liền bỏ ngay vào miệng. Tàu đi hay trôi đi, như một cái lá giữa một đại dương bao la, không thấy đâu là bến bờ. Trời với biển nhập lại với nhau ở chân trời như nồi được úp vung, một cái nồi hấp khổng lồ mà chúng tôi bị giam vào trong đó.
Thỉnh thoảng có vài con tàu lớn đi ngang qua ghe. Tôi nhớ nhất vào đêm thứ hai, một con tàu du lịch thắp đèn sáng trưng đi đến gần ghe chúng tôi, gần đến mức có thể nghe được tiếng nhạc và thấy cả dáng người đi lại trên boong tàu. Người trên ghe vẫy khăn trắng, đốt cả giầy dép, quần áo. Tôi còn nhớ mùi nhựa cháy khét lẹt. Nhưng con tàu du lịch lớn vẫn tiếp tục trôi đi bình thản, đi ngang qua chúng tôi như không nhìn thấy gì, như thể ghe chúng tôi là một con tàu ma. Nỗi thất vọng tràn ngập lòng tôi. Thực tế này không giống như những điều mọi người vẫn xầm xì với nhau khi đi vượt biên: Nước ngoài rất quan tâm đến người ty nạn. Chỉ cần ra đến hải phận quốc tế là chúng ta sẽ được vớt ngay. Thậm chí có cả những thuyền lớn của Cao ủy ngày đêm nằm chờ sẵn ngoài đó để đón thuyền nhân…
Đêm thứ hai cũng là lúc tôi khám phá ra ghe mình bị rò. Nước biển ở đâu mà cứ tràn vào hầm tàu lênh láng. Nỗi lo sợ tàu chìm làm tôi khủng hoảng đến tột độ. Biển mênh mông, sóng nước muôn trùng, vô vàn loài thuỷ quái…. Biết bơi thế nào được? Thế là tôi bắt đầu tát nước. Với một cái gáo hay một cái bình được cắt ngang nằm lăn lóc dưới hầm ghe. Có một anh cũng chia xẻ nỗi sợ ghe chìm, cùng tát nước chung với tôi. Có phải Kim hay anh Ngãi đó không? Chúng tôi im lặng tát nước, thỉnh thoảng nói vài câu động viên nhau. Chúng tôi làm việc suốt đêm, vì cứ tát được một lúc thì nước ở đâu lại tràn vào. Đến gần sáng thì nhóm tát nước được tặng cho một chút sữa nóng nhỏ. Sữa hâm nóng, đựng luôn trong cái lon sữa bò, chỉ một chút thôi, chừng 1/4 lon sữa hộp. Ôi chao, sao mà nó ấm áp ngon ngọt làm sao!
Thứ ba 5-08-2015
Ghe được thả trôi đi trên hải phận quốc tế, có lẽ để tiết kiệm xăng dầu. Mọi người trên ghe đều nằm như chết, tê liệt rũ rượi vì đói khát. Không nghe tiếng ai nói, chỉ có tiếng sóng biển và gió thổi. Tuyệt vọng đến cao điểm và cái chết kề cận lắm rồi.
Chính lúc đó, vào buổi sáng thứ ba, chợt một con tàu lớn xuất hiện phía chân trời. Đầu tiên nhỏ như một trái quýt, rồi lớn dần. Tàu lù lù tiến về phía chúng tôi. Hoa tiêu trên ghe đáp lại bằng cách gửi tín hiệu bằng kiếng và đèn. Máy ghe được bật lên, ghe quay đầu tiến đến gần tàu lớn. Nhưng tàu lớn không dừng lại, mà đi tiếp. Nhưng may mắn thay, nó không đi luôn mà quay vòng lại. Sau này tôi mới biết, một cái tàu không phải như cái xe, cứ đạp thắng, phanh thắng là tàu ghe dừng lại. Thành ra tàu lớn phải chạy đánh vòng, giảm tốc độ từ từ một lúc lâu rồi mới dừng hẳn lại được.
Khi chiếc ghe của chúng tôi cặp lại được gần cái tàu lớn, tôi mới giật mình, ý thức rõ hơn cái vĩ đại của con tàu cứu vớt mình. Tàu Nedlloyd Dejima to cao như một trái núi. Vào thời điểm 1980, tàu chở hàng Nedlloyd Dejima là chiếc tàu có trọng tải lớn đứng thứ nhì thế giới! Một chiếc thang dây được thả xuống ghe. Đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu sức lực nào đã khiến cho tôi và một số bạn cùng ghe có thể tay không mà trèo lên cái núi Dejima ngất ngưởng đó được?! Một số anh chị khác được ngồi trong một cái giỏ lưới và kéo lên boong như một món hàng lạ. Bao khuôn mặt Hà Lan tóc vàng da trắng đón chào chúng tôi, những gương mặt thân thiện, đẹp như các thiên thần. Trong căn phòng thể dục nhỏ, chúng tôi được đãi ăn trái cây, được uống nước, ăn bánh. Chúng tôi được phép xếp hàng đi tắm, cởi bỏ những bộ quần áo đen đủi, bê bết dầu nhớt mắm muối bẩn thỉu, khoác vào người những bộ quần áo sạch sẽ nhưng to đùng, rộng rinh. Chỉ chừng vài giờ sau khi được tàu vớt, vào khoảng 3 giờ chiều, thì anh Đức, tôi và một anh nữa đột nhiên được ông thuyền trưởng gọi lên phòng lái. Ông chỉ ra mặt biển mênh mông, lắc đầu ngó chúng tôi lặng im nhìn sóng gió cao đến 4, 5 thước, ôn tồn giải thích về cơn bão lớn đang diễn ra ngoài mặt biển. Tôi nhớ mãi câu nói tiếng Pháp của ông: Vous n’auriez jamais pu survivre cette tempêtre. Các anh chị sẽ không thể nào sống sót được cơn bão trước mặt.
Thứ tư 6-08-1980
Ngày hôm sau, một ngày trời rất đẹp, thuyền trưởng Nijhuis cho tàu Nedlloyd Dejima cặp bến cảng Singapore. Trên chuyến xe buýt về trại ty nạn, nhìn thấy sự phồn thịnh giàu có của Singapore, tôi tức giận, văng tục. Singapore chỉ là một bán đảo nhỏ bé, không có tài nguyên thiên nhiên gì đáng kể. Việt Nam quê hương rừng vàng biển bạc, mà sao lại lạc hậu, nghèo đói?
Nguyên nhân chẳng phải đào sâu,
thấy ngay thủ phạm: Vàng, Sao, lá cờ!!! (4)
Sau này nhìn lại đoạn phim do một thủy thủ trên tàu quay lại lúc chúng tôi xuống cầu thang để lên xe buýt về trại ty nạn, tôi thấy rõ chúng tôi lúc đó đã là những con người khác, quá khác so với những tấm hình cũng do một thủy thủ chụp lại một ngày trước đó. Không phải vì chúng tôi đã được uống nước, được ăn, được tắm giặt và thay quần áo khác. Vì chúng tôi là những người vượt biên may mắn đến được bến bờ tự do. Gương mặt của mọi người trên ghe rõ ràng là của những người chết đi sống lại. Hay như lời của một anh cùng ghe nói khi chuẩn bị tổ chức ngày họp mặt 35 năm, 66 người chúng tôi đã cùng được sinh ra vào ngày 5 tháng Tám 1980.
Thứ tư 6-08-2015
Từ hồi dọn nhà đến Delft, tôi hay ra biển. Chỉ phải lái xe 15 phút hay đạp xe đạp chừng hơn 45 phút đã đến Kijkduin. Đi bộ vài trăm mét qua khỏi những đụn cát trắng, là thấy biển bao la trước mặt. Biển có những đặc tính rất lớn và tôi yêu biển vì những đặc tính ấy…Đặc điểm của biển là chấp nhận nước của tất cả các dòng sông... sông nào ra tới biển cũng bỏ tên riêng của mình để mang tên biển cả... (5) Mỗi khi ngồi yên nhìn những đợt sóng nối tiếp nhau, xô đẩy nhau dạt vào bờ, tung lên những bọt trắng nhỏ, hơi thở tôi chậm lại, nhẹ dần, đều đặn. Tiếng sóng vỗ như lời ru ngọt ngào êm ái. Lòng tôi bình thản. Không gian thiên nhiên vô tận tràn vào trong tôi, mở bung ra vô vàn cánh cửa xua tan phiền muộn, lo âu giận hờn đi mất. Biển Bắc Hà Lan nước ít khi xanh lơ như biển Nam quê hương, mà xanh lục ngọc thạch. Nhưng tất cả nước biển ở đâu cũng đều có một vị là vị mặn. Sau 35 năm, tôi được học rằng cuộc sống cũng chỉ có một mục tiêu nhất định. Đó là giải thoát để có tự do. Và tự do thường bắt đầu từ một chuyến ra đi.
Nguyễn thanh Hùng
___________
1. Dân ca
2. Truyện Kiều, Nguyễn Du
3. Thơ Đặng công Linh
4. Ngục ca, Phạm Duy - Nguyễn chí Thiện
5. Đường xưa mây trắng, thầy Nhất Hạnh
Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhocnghethuat/van/radinhinlai.html