Nguyễn Hiền


Chúng tôi

.

Chúng tôi là những tên chẳng ai ưa, là những kẻ thừa thãi và là những người khuất mặt, vô hình với tất cả, ngoại trừ giữa chúng tôi với nhau. Chúng tôi, những người còn kém cả hư vô, cũng chẳng nhìn thấy gì khi chúng tôi như người mù ngồi thu mình trong chiếc bụng tối tăm của con tàu Nô-E, với cả bọn ước chừng một trăm rưởi người, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, trong khoảng không gian không dành cho loài động vật có vú như chúng tôi, mà là dành cho cá lưới từ dưới biển. Trong khi những đợt sóng xô đẩy chúng tôi từ cạnh bên này sang cạnh bên kia, chúng tôi nói bằng thứ ngôn ngữ mẹ nguyên sơ của mình. Với một số người, đó là lời cầu khấn, với những người khác, đó là lời nguyền rủa. Rồi khi có sự thay đổi trong chiều đu đưa của những con sóng lắc lư con tàu của chúng tôi mạnh hơn, một người trong đám thủy thủ ít oi thì thầm vào tai chúng tôi: Bây giờ mình đã ra khơi rồi. Sau hàng giờ lăn lộn trên sông, qua cửa sông và con kênh, chúng tôi đã rời bỏ quê mẹ.

Người tài công mở khoang tàu và gọi chúng tôi lên boong con tàu Nô-E mà cả thế giới dửng dưng đã hạ thấp nó xuống, chỉ đơn thuần gọi nó là chiếc ghe. Dưới nụ cười méo mó của mảnh trăng lưỡi liềm, chúng tôi cảm thấy đơn độc trên mặt thế giới biển cả này. Vừa qua cơn choáng váng vì vui mừng, giờ lại tới biển phập phồng làm chúng tôi xây xẩm theo cách khác. Chúng tôi cho ra ngoài những thứ trong bụng xuống đầy boong tàu và lên luôn cả bọn, và ngay cả khi không còn gì để ọc ra nữa, chúng tôi vẫn tiếp tục quặn bụng buồn nôn và hổn hển thở, kiệt lực trong cố gắng ọe ra. Cứ thế chúng tôi qua đêm đầu trên biển, rùng mình trong gió đại dương.

Vào lúc bình minh, chúng tôi chỉ thấy đường chân trời mọi hướng quanh mình đã rút đi đến nơi vô tận. Ban ngày thì nóng, không bóng râm, không có thời gian nghỉ ngơi. Chẳng có gì để ăn ngoài một ngoạm vừa đầy miệng và chẳng có gì để uống ngoài một muỗng đầy, chuyến đi kéo dài bao lâu chẳng ai biết còn khẩu phần của chúng tôi chỉ có hạn. Nhưng cho dù chúng tôi đã ăn ít như thế, vậy mà chúng tôi vẫn cứ để lại những dấu vết của con người khắp nơi trên boong và trong hầm tàu, và đến chiều tối thì chúng tôi đã được những thứ dơ dáy của chính mình trét khắp người. Vào lúc chập choạng tối, khi chúng tôi phát hiện ra một con tàu nơi phía chân trời, chúng tôi đã gào khản cả cổ. Nhưng chiếc tàu vẫn giữ nguyên khoảng cách.

Vào ngày thứ ba, chúng tôi gặp một chiếc tàu hàng đi ngang trước mặt, in hình trên mặt biển bao la như sa mạc, giống như con lạc đà một bướu, với cái cầu nhô lên từ đuôi tàu, các thủy thủ trên boong. Chúng tôi kêu gào, hoa chân múa tay, nhảy lên nhảy xuống. Nhưng chiếc tàu hàng đi thẳng, chỉ có bọt sóng theo đường rẽ nước tạt đến chúng tôi. Vào ngày thứ tư và thứ năm xuất hiện thêm hai chiếc tàu hàng, mấy chiếc này càng lúc càng đi sát chúng tôi hơn, và mỗi chiếc có cắm cờ khác nhau. Thủy thủ đoàn chỉ trỏ về phía chúng tôi, nhưng cho dù chúng tôi có van xin, nài nỉ và giơ mấy đứa bé lên, những chiếc tàu vẫn không đổi hướng và không giảm tốc độ.

Vào ngày thứ sáu, đứa trẻ đầu tiên chết, và một vị linh mục đã đọc kinh trước khi chúng tôi dâng cúng thân xác em cho biển. Vào ngày thứ sáu, một thằng nhỏ chết. Một số người cầu Chúa hăng say hơn, những người khác thì bắt đầu nghi ngờ sự hiện hữu của Người, vài người khác nữa vốn không tin Ngài bây giờ lại bắt đầu tin; rồi những người khác trước đây không tin thì giờ đây lại càng không tin nữa. Cha của một em bé qua đời đã kêu lên: Lạy Chúa tôi, tại sao Ngài lại đối xử với chúng con như vậy?

Đột nhiên, chúng tôi thấy rõ ràng câu trả lời muôn thuở của nhân loại muốn biết Tại sao?

Thì đó là câu xưa kia, và cũng là câu giờ đây, đơn giản như thế này: Tại sao lại không?

Làm mặt lạ với nhau khi chúng tôi bước lên con tàu Nô-E, nhưng bây giờ lại thân mật với nhau còn hơn cả tình nhân, chúng tôi lăn lộn trong đống chất thải của nhau, những khuôn mặt xanh lè xanh lét, da dẻ đầy vết phồng mọng nước do muối và bị nướng dưới ánh mặt trời thành một màu giống như nhau. Phần lớn trong chúng tôi đã chạy bỏ quê hương vì những người cộng sản đang nắm quyền đã dán cho chúng tôi nhãn hiệu là con rối, hay ngụy hòa, hay tư sản dân tộc, hay phản động đồi trụy, hay trí thức u mê sai lầm, hoặc chúng tôi thuộc gia đình của một trong những loại trên. Cũng có một bà thầy bói, một nhà phong thủy, một thầy tu, linh mục và có ít nhất một cô gái điếm, cô này bị anh người Tàu ngồi cạnh nhổ vào người và bảo: Tại sao cho cái con đĩ này nhập bọn với tụi mình?

Ngay cả trong đám những người không ai ưa, còn có những tên chẳng được ai ưa, và chỉ làm cho vài người trong đám chúng tôi bật cười.

Cô gái điếm tức giận nhìn chúng tôi và nói: Các người muốn gì?

Chúng tôi, những người vô ích, chẳng ai ưa, lại muốn thật nhiều. Chúng tôi muốn ăn, nước, và cái dù che nắng trên bãi biển, mặc dầu có được cây dù nhỏ cũng tốt. Chúng tôi muốn quần áo sạch sẽ, muốn tắm, muốn có nhà vệ sinh, nếu cần thì cái cầu tiêu ngồi xổm cũng được, bởi vì ngồi xổm trên đất liền dù sao cũng an toàn hơn và ít mắc cở hơn là phải bám vào lan can con tàu tròng trành trong khi đưa đít lủng lẳng ra ngoài thành tàu. Chúng tôi muốn mưa xuống, muốn có mây và cá heo. Chúng tôi muốn được mát mẻ hơn khi ban ngày nóng bức và ấm áp hơn trong đêm lạnh cóng. Chúng tôi muốn biết là khoảng chừng bao lâu nữa thì tới. Chúng tôi muốn là không chết trước khi đến nơi. Chúng tôi muốn được cứu thoát khỏi cảnh đang bị nướng dưới ánh nắng mặt trời tàn nhẫn. Chúng tôi muốn xem truyền hình, phim, nhạc, tất cả những gì để chúng tôi có thể qua ngày. Chúng tôi muốn tình yêu, hòa bình và công chính, nhưng phải ngoại trừ kẻ thù của chúng tôi, những người chúng tôi muốn để cho hỏa ngục thiêu họ, tốt nhất là họ vĩnh viễn phải bị như vậy. Chúng tôi muốn độc lập tự chủ và tự do, ngoại trừ những tên cộng sản sẽ nhất loạt phải bị nhốt vào trại cải tạo, tốt nhất là cho đến mãn kiếp. Chúng tôi muốn có những nhà lãnh đạo nhân từ đại diện cho nhân dân, mà chúng tôi muốn ngụ ý là cho chúng tôi mà không cho chúng nó, bất kể là ai. Chúng tôi muốn sống trong một xã hội mà mọi người đều bình đẳng với nhau, nhưng nếu chúng tôi đã từng được sắp đặt là chúng tôi sở hữu nhiều hơn hàng xóm, thì cũng là điều tốt. Chúng tôi muốn một cuộc cách mạng để lật đổ cuộc cách mạng mà chúng tôi vừa phải trải qua. Tóm lại, cái chúng tôi muốn là muốn không bị mất gì cả!

Cái mà chúng tôi chắc chắn không muốn là giông bão, vậy mà chúng tôi vẫn cứ bị vào ngày thứ bảy. Những người có đạo lại gào lên một lần nữa: Chúa ơi, xin cứu chúng con! Những người không có đạo thì kêu: Ông Trời khốn nạn! Có đạo hay không, cũng không cách nào thoát khỏi giông bão, đã nổi lên từ phía chân trời và lan rộng ra mãi, càng lúc càng đến gần hơn. Gió nổi lên, quất lên những cơn giận dữ và thu ngắn khoảng khắc, còn trong khi những ngọn sóng ngày càng cao, thì tốc độ và độ nhấp nhô của con tàu của chúng tôi càng mãnh liệt hơn. Những tia chớp thắp sáng những nếp mây giông đen kịt và sấm sét át hẳn tiếng kêu rên đồng loạt của chúng tôi. Một trận mưa đổ ập xuống chúng tôi và trong khi những đợt sóng quất cho con tàu của chúng tôi càng lúc càng cao thêm, những người theo đạo thì cầu nguyện còn những người không theo đạo thì chửi rủa, nhưng cả hai bên đều khóc. Thế rồi con tàu của chúng tôi đạt đến độ cao ngất và treo lơ lửng trong một khoảnh khắc bất tận trên đầu con vách nước dựng đứng, có chiếc lược tuyết bao phủ. Khi chúng tôi nhìn xuống thung lũng màu rượu nho bên dưới đang chờ đón chúng tôi, chúng tôi biết chắc hai điều sẽ tới. Thứ nhất là chúng tôi chắc chắn đang đi tới chỗ chết! Và thứ hai là chúng tôi gần như chắc chắn sẽ còn sống!

Đúng rồi, chúng tôi biết chắc điều đó. Chúng tôi – Vẫn – Sống!

Và rồi chúng tôi rơi tuột xuống vực thẳm trong tiếng gào rú.

***

Trên đây là Chương Mở Đầu của tác phẩm The Committed của Viet Thanh Nguyen (Nguyễn Thanh Việt), xuất bản năm 2021.

Người dịch: Nguyễn Hiền

 

Direct link: https://caidinh.com/trangluu1/vanhocnghethuat/van/chungtoi.html


Cái Đình - 2022