Trần Văn Chi


Vì sao Việt Nam không bị đồng hóa sau hơn 1.000 năm Bắc Thuộc?

.

Trong lịch sử, các nền văn hóa yếu thường bị nền văn hóa mạnh đồng hóa.
Thời cổ, Trung Quốc là quốc gia đông người nhất và có nền văn minh tiên tiến nhất Châu Á.
Nền văn hóa Hán ngữ của họ có sức mạnh đồng hóa láng giềng.

Chùa Quán Sứ ở Hà Nội, một công trình tôn giáo cổ kính mang đậm nét Việt Nam.
(Hình minh họa: Manan Vatsyayana/AFP via Getty Images)

- Dân tộc Hồi ở phía Tây nước này, ngày xưa dùng chữ Ả Rập, sau nhiều năm giao lưu với người Hán, họ dùng chữ Hán và nói tiếng Hán.

- Ngay cả dân tộc Mãn Châu hùng mạnh về quân sự, sau khi thôn tính và thống trị Trung Quốc được ít lâu cũng bị nền văn hóa Hán Ngữ đồng hóa.

Chính sách đồng hóa của Trung Quốc thời Bắc Thuộc

Đồng hóa thời Bắc Thuộc kéo dài, gắn liền với các cuộc di dân từ phương Bắc của người Hoa Hạ xuống đất Việt phương Nam. Quá trình di dân và đồng hóa có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống chính trị, xã hội, và văn hóa Việt Nam.

Chính sách đồng hóa và di dân đối với người Việt được các triều đại phong kiến Trung Quốc thực hiện từ khá sớm. Trung Quốc tự cho mình là nước lớn, coi các dân tộc khác xung quanh là thấp kém, cần phải “giáo hóa” và gọi họ bằng những tên miệt thị như Man, Di, Nhung, Địch. Do tư tưởng tự tôn này, các triều đình Trung Quốc mang quân bành trướng, thôn tính các nước và dân tộc xung quanh.

Sau khi chiếm nước ta (203 tr. CN), Triệu Đà ép buộc dân Việt học Hán Ngữ, nhằm đồng hóa bằng ngôn ngữ.

Sách “Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận” do Lê Tung viết năm 1514 có đề cập việc họ Triệu mở trường dạy người Việt học chữ Hán.

Tới triều nhà Minh 1368 - 1644 (do xuất thân ở đất Ngô nên mới có bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi), họ còn tìm cách tiêu diệt nền văn hóa của ta, như tiêu hủy toàn bộ các thư tịch do người Việt viết, bắt nhân tài, thợ giỏi người Việt sang Trung Quốc phục dịch.

Như vậy, dân tộc ta buộc phải chấp nhận học chữ Hán từ rất sớm (trước Triều Tiên và Nhật nhiều thế kỷ).

Tuy nhiên, người Việt nhanh chóng nhận ra nếu cứ học như thế thì cuối cùng tiếng Việt sẽ bị thay bằng tiếng Hán, dân ta sẽ trở thành một bộ phận của Trung Quốc.

Nhận định về Việt Nam sau 1.000 năm Bắc Thuộc, sử gia Trần Trọng Kim nói: “Người Giao Châu ta có một cái nghị lực riêng và cái tính chất riêng để độc lập, chứ không chịu lẫn với nước Tàu.”

Việt Nam chống đồng hóa bằng nhiều cách

1. Giữ tiếng nói

Biểu hiện rõ nhất của sự bảo tồn giống nòi chống đồng hóa là sự bảo tồn tiếng Việt. Tiếng nói là một thành tựu văn hóa, là một thành phần của văn hóa. Giặc phương Bắc chỉ tiêu diệt được chính quyền cai trị người Việt nhưng không tiêu diệt được tiếng Việt.

Ngoại trừ một nhóm người tham gia bộ máy cai trị của chính quyền phương Bắc tại Việt Nam học tiếng Hán, còn lại đa số người Việt vẫn sống theo cách sống riêng và duy trì tiếng nói của tổ tiên. Dù đã có sự hòa trộn những từ ngữ Hán trong tiếng Việt, người Việt hấp thụ chữ Hán theo cách sáng tạo riêng, Việt hóa những từ ngữ đó theo cách dùng, cách đọc, tạo thành một lớp từ mà sau này được gọi là từ Hán Việt.

Mấy nghìn năm sau, Phạm Quỳnh, một học giả lớn của dân tộc ta, tóm tắt bài học lịch sử này trong một câu nói rất chí lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!”

2. Giữ phong tục

Người phương Bắc đưa vào nhiều thứ lễ giáo của phương Bắc và điều đó có ảnh hưởng nhất định tới người Việt. Tuy nhiên, những nếp sinh hoạt truyền thống trong đời sống của người Việt vẫn được duy trì.

Sống trong ngàn năm Bắc Thuộc, người Việt thời đó vẫn không bỏ những phong tục như búi tóc, xăm mình, ăn trầu, chôn người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng, nhuộm răng…

Kết luận

- Xét về ngôn ngữ, tiếng Việt thuộc ngữ hệ Môn-Khmer, khác hẳn tiếng Hán và tiếng của các tộc Bách Việt đều thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.

Hán Ngữ nghèo âm tiết nên chỉ có thể dùng chữ viết loại ghi ý trong khi chữ Việt thuộc loại ghi âm như chữ Quốc Ngữ Việt Nam.

- Về chủng tộc người Việt thuộc loại người thấp nhỏ, phụ nữ thanh mảnh, khác với người Bách Việt ở Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang…

Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học cho thấy hệ gene của người Việt khác rất xa hệ gene của người Hán.

Từ những khác biệt nhiều mặt kể trên, có thể khẳng định: Người Việt Nam thời cổ không phải là người di cư từ phương Bắc xuống, trước khi nhà Tần xâm lược Việt Nam.

Người Việt không có quan hệ với các dân tộc ở bên kia biên giới phía Bắc. Dân tộc Việt không phải là thành viên của cộng đồng Bách Việt.

- Và nhờ sáng tạo được phương pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua đó đã vô hiệu hóa chủ trương đồng hóa ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Trung Quốc.

.

Giáo Sư Trần Văn Chi

 

Direct link: http://caidinh.com/trangluu1/vanhoaxahoi/vanhoa/visaovietnamkhongbi.htm


Cái Đình - 2021