Phạm Ðình Lân
Năm Ngọ nói chuyện ngựa
Năm 2014 là năm con ngựa hay nói rõ hơn năm Giáp Ngọ. Ngựa là một động vật hữu ích cho loài người. Năm Giáp là năm có tầm vóc lớn nên có câu: Những ai Giáp, Kỷ mấy người? Nhân dịp nầy chúng ta thử nói chuyện về ngựa.
Thân thế và đặc điểm của ngựa
Ngựa là động vật có vú, có xương sống, có máu đỏ và sinh con. Tên Hán-Việt của ngựa là Mã thuộc gia đình Equidae. Tên khoa học của ngựa là Equus caballus.
Ngựa có mặt dài, mũi rộng nên việc hô hấp rất dễ dàng. Răng ngựa rất khoẻ mặc dù ngựa là loài ăn cỏ chớ không ăn xương. Ngựa có khứu giác, thính giác và thị giác rất bén nhậy. Chân ngựa rất khoẻ. Vì vậy ngựa chạy rất nhanh. Ngựa dùng chân như là võ khí để tự vệ. Ngựa là một loài động vật thông minh, dễ thuần hóa và dễ huấn luyện. Loài người gán cho Mã tộc nhiều đặc điểm. Có điều đúng cũng có những điều lạ chỉ được nghe nhưng chưa được kiểm chứng qua sách vở. Ðặc điểm của Mã tộc được tóm lược như sau:
– ngựa là động vật biết nhe răng cười.
– ngựa không bao giờ đạp chủ khi té ngã.
– ngựa không chạy giật lùi khi lâm trận.
– ngựa được không giao tình với ngựa cái đồng huyết thống. Nếu bị cách ly nên không quen hơi và xảy ra việc chủng giống giữa hai con đồng huyết thống thì con ngựa đực chết ngay sau khi giao tình (điều này chưa thấy sách vở nào đề cập).
– ngựa luôn luôn ngủ đứng trên tào.
– ngựa chủng giống với lừa (donkey) sinh ra con la (mule). La không còn sinh sản nữa.
Có lối 150 giống ngựa khác nhau trên thế giới. Hầu hết các giống ngựa đều phát xuất ở Trung Á, Trung Ðông và Âu Châu. Ngựa to lớn nhất là ngựa Shire gốc ở Anh. Giống ngựa nầy cao lối 1,70m (theo cách đo chiều cao của ngựa, tính từ vai) và cân nặng trên 900 kí-lô. Giống ngựa nhỏ nhất là ngựa Falabellas gây giống ở Argentina. Giống ngựa lùn (poney) chỉ cao lối 1,47m.
Ngựa Shire và ngựa Falabella
Số ngựa hoang trên thế giới hiện nay sụt giảm đáng kể ngoại trừ ngựa rằn ở các thảo dã Phi Châu. Ngựa Mustang là ngựa hoang ở Hoa Kỳ. Thực tế đó là ngựa đi lạc của người Tây Ban Nha trong thời kỳ bành trướng ảnh hưởng trên lục địa Mỹ Châu. Người Tây Ban Nha gọi ngựa Mustang là Mesteno tức ngựa đi hoang, đi lạc. Giống ngựa hoang Przewalski hiện vẫn còn xuất hiện trên các đồng cỏ ở Tân Cương (Turkestan) và Mông Cổ.
Ngựa bắt đầu bắt cặp khi được từ 3 đến 5 tuổi. Nếu sớm hơn, xương cốt của ngựa giống chưa được hoàn chỉnh. Ngựa con sẽ không mạnh. Ngựa mang thai từ 11 đến 12 tháng mới sinh. Ngựa con sinh ra trong vài giờ thì có thể tự đứng dậy. Ngựa con bú sữa khoảng 06 tháng thì thôi sữa.
Trước kia ngựa lao lực nhiều nên tuổi thọ trung bình xê dịch từ 15-25 tuổi. Bây giờ ngựa bớt lao lực lại có đầy đủ thuốc thú y nên tuổi thọ của ngựa có thể lên đến 40-50 tuổi. Những con số nầy ít thấy trên thực tế vì các lò sát sinh thiếu ‘hàng’ để sinh hoạt hàng ngày hay sinh hoạt định kỳ.
Người nuôi ngựa thường quan tâm đến tướng ngựa trước khi mua nó đem về nuôi. Ngựa có chòm lông giữa trán là ngựa hại chủ. Ngựa có đuôi dài quất ngược đến lưng người cỡi thì người cỡi chết ngoài trận mạc. Ngựa có xoáy song kiếm là ngựa phạm chủ. Khi ra trận ngựa chùn bước là dấu hiệu bất lành. Ngựa có thể đánh hơi cọp, beo hay sư tử ở cách xa cả cây số.
Mã tộc trong xã hội loài người
Những bức tranh về ngựa vào thời tiền sử được tìm thấy trong các hang động ở Âu Châu. Bức tranh ngựa trong hang Lascaux ở miền Tây Nam nước Pháp có lối 17.000 tuổi. Cách đây 5000 năm, cư dân trong thành phố Susa ở Trung Á cổ đã biết cỡi ngựa. Những bia đá cho thấy người Hittites biết huấn luyện và dùng ngựa trong chiến trận và thể thao. Vào năm 1400 trước Tây Lịch người Assyrians dùng xe hai bánh do ngựa kéo để săn sư tử. Người Trung Hoa thuần hoá ngựa cách đây 4000 năm. Người Hy Lạp thuần hóa ngựa năm 1700 trước Tây Lịch. Người Ai Cập thuần hóa ngựa vào năm 1600 trước Tây Lịch và người Ấn Ðộ vào năm 1500 trước Tây Lịch.
Ngựa là động vật hữu ích cho loài người. Người phương Tây yêu quí ngựa như chó và mèo trong nhà vậy. Ngựa dùng để cỡi, kéo xe, kéo cày. Người Hy Lạp và La Mã cổ dùng ngựa trong chiến tranh và thể thao. Ở Bắc Phi, Trung Á và các vùng núi, người ta dùng lừa chuyên chở hàng hóa. Lừa nhỏ hơn ngựa nhưng có tai dài, rất khoẻ và chở hàng trên miền núi nhanh nhẹn và bền bỉ hơn ngựa. Giống thú nầy lì lợm và không linh hoạt như ngựa nên người ta thường nói: “Ngu như lừa”.
Ngày xưa ngựa đóng vai trò của chiến xa ngày nay. Người Kassites ở Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia), người Hypnos ở Ai Cập, người Mitanni ở Syria, người Aryans ở Ấn Ðộ và người Trung Hoa biết dùng ngựa trong các trận đánh để giành ưu thế trên chiến trường. Người Mông Cổ nổi tiếng là những kỵ binh nổi tiếng. Attila từng chỉ huy người Huns xâm lăng Âu Châu và đe dọa La Mã vào thế kỷ thứ V sau Tây Lịch. Vào thế kỷ thứ VIII đạo quân Hồi Giáo hình thành một đế quốc rộng lớn chạy dài từ Tây Ban Nha đến Ấn Ðộ nhờ có đội kỵ binh hùng mạnh. Vào thế kỷ XIII, dưới sự chỉ huy của Gengis Khan (Thành Cát Tư Hãn), đoàn kỵ binh Mông Cổ chinh phục Nga, Iran, Ấn Ðộ và một phần Ðông Âu. Trong đệ nhất thế chiến người Cossaks vẫn còn nổi tiếng là những kỵ binh thiện chiến ở Nga. Tù khi xe tăng xuất hiện trên chiến trường (đệ nhất thế chiến), vai trò của chiến mã không còn quan trọng nữa.
Cho đến sau đệ nhị thế chiến ngựa vẫn còn được dùng để kéo cày ở Âu Châu vì trồng lúa mì không cần ruộng lầy như việc trồng lúa gạo. Do đó việc cày bừa không cần trâu hay bò. Cỡi ngựa và đua ngựa là môn thể thao của giới thượng lưu ở Âu Châu. Dưới thời Pháp thuộc ở Sài Gòn có trường đua Phú Thọ nơi người ta đến để xem đua ngựa và đánh cá ngựa thắng cuộc vào ngày chúa nhật mỗi tuần. Trong Vườn Ông Thượng tức Vườn Bồ-Rô (Jarden des Beaux Jeux) có Hội Quán Kỵ Mã (Cercle Hippique) dành cho các nhà cai trị Pháp và những người giàu có và quyền thế bản xứ.
Ở Việt Nam ngựa được dùng để kéo xe, chở hành khách và hàng hóa trên những tuyến đường không quá 20km. Xe ngựa được gọi là xe thổ mộ vì mui xe gờ lên như nấm mộ đất! Cho đến thập niên 1970, mặc dù có xe Lambretta ba bánh, xe Daihatsu, xe ngựa vẫn còn là phương tiện chuyên chở ở vùng ven biên Sài Gòn như Hóc Môn, Bà Ðiểm, Củ Chi.
Người Việt Nam cho rằng thịt ngựa có nhiều ‘phong’. Ở Việt Nam có lò sát sinh heo, bò và quầy bán thịt heo và bò nhưng không có lò sát sinh ngựa và quầy thịt ngựa ngoài chợ. Tuy vậy, trước năm 1975 vẫn có quán thịt ngựa trước bịnh viện Nguyễn Văn Học (Bà Chiểu – Bình Hòa).
Người Âu Châu tỏ ra yêu quí ngựa. Trên thực tế vẫn có lò sát sinh ngựa. Huyết ngựa được làm si-rô. Da ngựa được dùng để nấu keo. Trong những tháng vừa qua (năm 2013) ở Âu Châu người ta phát giác ra việc bán thịt ngựa dưới nhãn thịt bò hay thịt bò pha trộn với thịt ngựa!
Trong lịch sử nhân loại có những con ngựa trứ danh vì gắn liền với những nhân vật lịch sử được nhiều người biết đến:
– Ngựa Kiển Trắc chở Thái Tử Siddharta tức Ðức Phật Thích Ca rời khỏi hoàng cung.
– Ngựa sắt giúp cho Phù Ðổng Thiên Vương đánh bại giặc Ân trong huyền sử Việt Nam.
– Ngựa gỗ thành Troy giúp cho người Hy Lạp chiếm được thành Troy (huyền thoại).
– Ngựa Al Birak chở Ðức Giáo Chủ Muhammad từ địa cầu đến từng trời thứ 7.
– Alexander Ðại Ðế cỡi ngựa Bucephalus. Vì thương mến con ngựa nầy mà Alexander Ðại Ðế cho thành lập thành phố Bucephala (Ấn Ðộ) năm 326 trước Tây Lịch để vinh danh nó.
– Ngựa Incitus của Hoàng Ðế Caligula hay Gaius của Ðế Quốc La Mã ngự trị từ năm 37 - 41 sau Tây Lịch được phong làm Lãnh Sự. Ngựa được mang thẻ ngà và uống rượu nho.
– Hoàng Ðế Napoléon I cỡi bạch mã Marengo trong trận đánh Waterloo.
– Wellington cỡi ngựa Copenhagen trong chiến thắng Waterloo năm 1815.
– Ngựa Reckless chở quân cụ cho quân sĩ Hoa Kỳ trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) được phong làm trung sĩ và được mang huy chương.
– Quan Công (Guan Kung) cỡi ngựa Xích Thố khi ra trận.
Theo truyền thuyết, khi còn trẻ, Ðinh Bộ Lĩnh được một thầy địa lý Trung Hoa thuê lặn xuống một xoáy nước. Ông thấy một con ngựa đá giẫm chân mừng ông. Người ta cho rằng ông có chân mạng đế vương. Sau nầy ông dẹp loạn sứ quân và lên làm vua khai sáng ra nhà Ðinh.
Năm 1288, sau khi chiến thắng quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tôn về Long Hưng thăm viếng lăng nhà Trần. Nhà vua ngạc nhiên khi thấy tất cả ngựa đá ở đó đều dính bùn và đổ mồ hôi. Nhà vua biết rằng tổ tiên nhà Trần cỡi ngựa đi đánh giặc. Cảm kích sự việc nầy nhà vua làm ra hai câu thơ sau đây để ca ngợi công lao của ngựa đá:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ diện kim âu
(Xa tắc hai phen bon ngựa đá
Non sông muôn thuở vững âu vàng)
Thuở hàn vi, Trịnh Kiểm, tổ tiên của các chúa Trịnh uy quyền lừng danh ở Bắc Hà cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, là người giữ ngựa. Hàng ngày ông phải đi cắt cỏ cho ngựa ăn.
Trong vở kịch L’Avare, Molière mô tả người hà tiện Harpagon không dám nghĩ đến việc gả con gái lấy chồng vì sợ tốn của hồi môn. Ông hà tiện đến nỗi ban đêm phải lén vào chuồng ngựa ăn cắp bớt cỏ để ngựa đừng ăn nhiều cỏ gây nhiều phí tổn cho ông!
Ngựa có vai trò sống động trong các phim cao bồi miền Viễn Tây Hoa Kỳ. Ở Việt Nam có điệu hát Lý Ngựa Ô , bài ngựa Phi Ðường Xa, Người Kỵ Mã Trong Sương Chiều và tiếng ngựa hí ra lửa trong huyền thoại Phù Ðổng Thiên Vương cũng như tiếng ngựa hí vang rền trong Hòn Vọng Phu. Chuyện Tái Ông Thất Mã nói lên sự luân chuyển và tiếp nối liên tục giữa Phúc và Họa để đưa ra nhận xét khá bi quan về
Phúc bất trùng lai;
Họa vô đơn chí.
Trong ngôn ngữ Việt Nam có nhiều cụm từ ngữ liên quan đến ngựa như: Hồ mã tề Bắc phong; Mã thượng bất tri mã hạ khổ (sự thiếu thông hiểu của người thắng (trên ngựa) đối với người bại (dưới ). Ngựa chạy có bấy, chim bay có bạn; Một con ngựa đau cả tào không ăn cỏ; Tứ mã phân thây (Mã cách khỏa thi); Nhất ngôn hí xuất tứ mã nan truy; Ngựa quen đường cũ (Habit is a second nature); Ngựa non háu đá; Tâm viên ý mã (Tâm xao động như khỉ nhảy nhót, ý phân tán chạy lung tung như ngựa chạy); Ðầu trâu mặt ngựa; kiếp trâu ngựa; Trâu cày ngựa cỡi; Da ngựa bọc thây; Tóc đuôi ngựa (Queue de cheval), Vành móng ngựa (nói người bị cáo đứng tại tòa án) v.v…
Trong hội họa có tranh Mã Ðáo Thành Công được người Ðông Phương ưa chuộng và treo ở nhà với ước vọng mọi việc sẽ hanh thông và thành công nhanh chóng. Người Tây Phương treo móng ngựa trước cửa như mưu cầu hanh thông và may mắn.
Từ cảm hứng của xe Song Mã và Tứ Mã người ta làm ra xe hơi và dùng sức mạnh của ngựa là đơn vị gọi là mã lực như xe hai mã lực (2CV), xe bốn mã lực (4CV) chẳng hạn. Khi mới phát minh ra chiếp xe đạp người ta gọi đó là con ngựa sắt.
Các lực sĩ học cách chạy nhanh của mã tộc. Các nhà võ thuật học cách đá giò lái của loài động vật nầy.
Trong y học có chứng mã đao (fistulae), bịnh sưng ở cổ và mang tai. Trong thú y có bịnh horse pox của ngựa. Miệng và da ngựa nổi mụt ngứa và đau nhức tựa như bịnh đậu mùa của ngựa vậy.
Trong thảo mộc có lá Mã đề Plantago major (vì giống móng ngựa); Mã xỉ hiện (ráng ngựa <rau sam>) Portucala oleacea; Mã thầy (củ năn) Heleocharis tuberosa; Mã tiên thảo (cỏ roi ngựa) Verbena officinalis; Mã vĩ liên (thổ hoàng liên) Thalictrum foliolosum, cây Dái ngựa Swietenia macrophylla; Mã dậu (Ba dậu) Hura crepitans v.v…
Thực vật có chữ Horse (ngựa) trong tiếng Anh rất nhiều như horse chestnut (cây dẻ ngựa) Aesculus hippocastanum; cải horse radish Armoracia lapathifolia; horse mint (bạc hà hoang) Mentha longifolia; horse mushroom (nấm có mùi hồi hương) Agaricus arvensis; horsetail tree (mã vĩ mộc) Casuarina equisetifolia.
Trong Thiên Văn có áng mây Horsehead Nebula (mã thủ vân – vì giống hình đầu ngựa) trong chòm sao Orion.
Ở Việt Nam có vài địa danh mang tên Mã tộc như sông Mã (Thanh Hóa), núi Mã Yên Sơn (Lạng Sơn), núi Bạch Mã (Thừa Thiên), rừng Mã Dà (Ðồng Nai Thượng), cửa Ngọ Môn (Huế) v.v…
Ðảng Dân Chủ của Hoa Kỳ lấy hình con lừa làm dấu hiệu của đảng
***
Trong khoa Tử Vi có sao Thiên Mã luôn luôn ở một trong 04 cung Dần, Thân Tỵ, Hợi. Mã ngộ Ðà La là ngựa què. Mã, Khách gặp Thiên Khốc đắc địa thì được vang danh như ngựa có mang chuông. Mã gặp Kiếp, Không, Kình, Ðà, Hình thì gặp cảnh da ngựa bọc thây.
Trong số đề 40 số, ngựa mang số 12 trước con voi (số 13) và sau con chó (số 11). Trong 12 con giáp, năm con ngựa gọi là năm Ngọ. Năm Ngọ đi sau năm Tỵ (Rắn) và trước năm Mùi (Dê). Người tuổi Ngọ thường được nhiều thiên phúc. Gặp Giáp Ngọ càng tốt đẹp hơn nhất là cho nam giới. Nếu là nữ thì cũng tốt nhưng bù lại có sự lận đận thăng trầm của người cao số. Tuổi Ngọ tương đối sang như vậy nhưng người có mặt ngựa lại hung dữ, hỗn láo. Người có răng ngựa gặp nhiều cay đắng. Người có xoáy ngựa rất hung hãn, bạo tợn.
Năm Ngọ là năm Dương (+). Trong chu kỳ 60 năm có 05 tuổi Ngọ
Năm | Hành | Mầu |
---|---|---|
Giáp Ngọ (1894, 1954, 2014…) | Kim | Trắng |
Bính Ngọ (1906, 1966, 2026…) | Thủy | Ðen |
Mậu Ngọ (1918, 1978, 2038…) | Hỏa | Ðỏ |
Canh Ngọ (1930, 1990, 2050…) | Thổ | Vàng |
Nhâm Ngọ (1942, 2002, 2062…) | Mộc | Xanh |
Tuổi Ngọ hợp với Dần, Tuất, Mùi và không hợp với Tí (chuột), Mão (mèo – Thố = thỏ, theo Trung Hoa), Dậu (gà).
Tháng Ngọ là tháng 05 Âm Lịch.
Giờ Ngọ kéo dài từ 11-01 giờ trưa. Ðó là lúc mặt trời lên thiên đỉnh.
Biến cố quan trọng năm Ngọ vào thế kỷ XX
1906: Ðộng đất gây hư hại 75% thành phố San Francisco; Alfred Dreyfus được công bố vô tội; Mahatma Gandhi và Phong Trào Bất Bạo Ðộng ‘Satyagraha’ ở Nam Phi; Tổng Thống Theodore Roosevelt lãnh giải Nobel Hòa Bình vì làm trung gian cho Nga-Nhật thương thuyết sau trận hải chiến Tsushima (1905).
1918: Tổng Thống Hoa Kỳ Wilson đưa ra Chương Trình 14 điểm; dịch cảm cúm làm cho 30 triệu người chết xuất phát trước tiên từ Tây Ban Nha; Ðức bị đánh bại trong đệ nhất thế chiến; chế độ quân chủ Ðức cáo chung.
1930: Khủng hoảng kinh tế thế giới; sự thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam cải danh thành đảng Cộng Sản Ðông Dương; 13 liệt sĩ VNQDÐ bị xử tử ở Yên Bái; hiệp ước London ký kết giữa Anh-Hoa Kỳ-Pháp-Ý-Nhật về việc tài giảm hải quân; Phong Trào Hồi Giáo Da Ðen ở Hoa Kỳ.
1942: Trận đánh Midway; quân Hoa Kỳ đổ bộ lên Guadalcanal; quân Anh-Hoa Kỳ đổ bộ lên Bắc Phi.
1954: Trận đánh Ðiện Biên Phủ; hiệp định Geneva; tàu ngầm nguyên tử Nautilus hạ thủy ở Groton, Connecticut; sự ra đời của Liên Minh Phòng Thủ Ðông Nam Á (SEATO: Southeast Asian Treaty Organization).
1966: Biểu tình Phật Giáo ở Huế và Ðà Nẵng; Hoa Kỳ oanh tạc miền Bắc; hội nghị Honolulu giữa Tổng Thống Johnson và Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia Nguyễn Văn Thiệu và Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ; Cách Mạng Văn Hóa trên lục địa Trung Hoa.
1978: Hiệp ước an ninh Việt-Sô; Cộng Sản Việt Nam xâm lăng Cambodia; Hoa Kỳ biểu quyết trao trả kinh đào Panama vào năm 1999; hiệp ước hòa bình và thân hữu Nhật-Hoa (CHNDTQ).
1990: Iraq xâm lăng Kuwait; lực lượng Operation Desert Shield được phái đến Saudi Arabia; Romania cấm đảng Cộng Sản hoạt động (12-01-90); nhóm Sandinistas thiên tả thất cử ở Nicaragua; Yeltsin đắc cử Tổng Thống Cộng Hòa Nga (Liên Sô chưa sụp đổ); Ðông và Tây Ðức hợp nhất.
2002: Thế Vận Hội Mùa Ðông ở Salt Lake City; Tòa Án Hình Sự Quốc Tế được thành lập; khủng bố nổ bom ở khu du lịch Bali, Indonesia; nội chiến bắt đầu ở Ivory Coast.
Yếu nhân sinh năm Ngọ
Những nhân vật lịch sử quan trọng tuổi Ngọ trên thế giới là: Vladimir Ilyich Lenin (1870-1924), Leonid Ilyich Brezhnev (1906-1982), Phạm Văn Ðồng (1906-2000), De Valera Eamon (1882-1975), Adolf Eichmann (1906-1962), Nikita Sergeyevich Krushchev (1894-1971), Nelson Mandela (1918-2013), Gamal Abdul Nasser (1918-1970), Franklin Delano Roosevelt (1882-1945), Anwar Sadat (1918-1981) v.v…
Lenin (1870-1924) là người cầm đầu cuộc cách mạng vô sản Nga năm 1917. Ông tốt nghiệp luật khoa. Cha ông là thanh tra học chánh. Mẹ ông gốc Do Thái cải sang Chính Thống Giáo. Năm 1918 Lenin bị một thiếu nữ tên Fanya Kaplan ám sát trọng thương. Năm 1919 ông thành lập Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản (Comintern) ở Moscow. Thực tế, sau khi ông bị thương, sức khỏe của ông rất kém nên phải tịnh dưỡng ở vùng ngoại ô Moscow. Chỉ huy Hồng Quân đánh nhau với phe Bạch Vệ có Trotsky. Ðiều hành đảng có Stalin. Ông sống trong sự dày vò của cơn bịnh. Trước khi chết ông phải trải qua 04 cơn tai biến mạch máu não. Sau khi ông mất, Stalin triệt hạ Trotsky và loại bỏ những nhân vật quan trọng và thân tín của ông gốc Do Thái trong đảng. Thành phố St. Petersburg mang tên ông: Leningrad. Năm 1991 Liên Sô sụp đổ. Leningrad trở về với tên cũ nhưng thi thể của Lenin vẫn còn trong hòm kiếng tại Hồng Trường Moscow. Nhiều người đòi chôn ông để làm đẹp thủ đô thay vì lưu lại một nấm mồ. Nhưng cho đến nay hòm kiếng của ông tại Hồng Trường vẫn còn. Nga đặt tên tỉnh sinh quán của ông là Ulyanov, họ thật của ông. Lenin chỉ là bí danh đặt theo tên sông Lena.
Brezhnev (1906-1982) là người Ukraine như Krushchev mà ông lật đổ năm 1964 để giữ chức đệ nhất bí thơ đảng và chủ tịch nhà nước tức Hội Ðồng Tối Cao Sô Viết. Brezhnev là kỹ sư ngành luyện kim. Ông tiếp nối đường lối sống chung hòa bình với các nước Tây Phương như Krushchev nhưng ông thích được suy tôn như Stalin. Ông chú trọng đến quân sự và tự cho rằng Liên Sô có quyền đưa quân vào Tiệp Khắc năm 1968. Quân Liên Sô đánh nhau với quân Cộng Sản Trung Hoa trên đảo Damansky năm 1969. Ông tự phong Thống Chế và cho rằng chính ông là người chỉ huy Hồng Quân Liên Sô chiến thắng phát xít Ðức chớ không phải Zukov. Ông nắm quyền ở Liên Sô từ năm 1964 đến 1982 trải qua các đời Tổng Thống Johnson, Nixon, Ford, Carter và Reagan của Hoa Kỳ. Brezhnev chủ trương can thiệp vào chiến tranh ở Angola (1975), chiến tranh giữa Ethiopia-Somalia (1977-1978) và chiến tranh xâm lăng Afghanistan (1979). Ông có hai nước Cộng Sản hưởng ứng cuồng nhiệt đường lối chủ chiến của ông là Cuba với Fidel Castro và CHXHCNVN với Lê Duẩn. Chiến tranh xâm lăng ở Afghanistan của Liên Sô bị thế giới cực lực lên án. Liên Sô bị sa lầy vì sự đề kháng dũng mãnh của du kích Afghanistan. Kinh tế Liên Sô bị suy kiệt vì chiến tranh xâm lăng và viện trợ cho các nước đàn em như Cuba, Việt Nam v.v… Uy tín quốc tế của Liên Sô giảm sút nặng nề. Thế Vận Hội Moscow thất bại vì bị các nước dân chủ Tây Phương tẩy chay. Brezhnev mất năm 1982. Năm 1988 Liên Sô rút quân khỏi Afghanistan. Năm 1991 Liên Sô hoàn toàn sụp đổ.
Phạm Văn Ðồng (1906-2000) là người Mộ Ðức, tỉnh Quảng Ngãi, con của một quan lại triều đình Huế dưới triều vua Duy Tân. Ông và Nguyễn Lương Bằng sớm gia nhập vào Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội, tiền thân của đảng Cộng Sản Việt Nam, do Lý Thụy (Hồ Chí Minh sau nầy) thành lập ở Guangzhou (Quảng Châu) năm 1925. Năm 1945 ông đại diện VNDCCH tham dự hội nghị Fontainebleau. Từ 1955 đến 1976 Phạm Văn Ðồng là Thủ tướng VNDCCH. Từ năm 1976 đến 1987 ông là Thủ Tướng CHXHCNVN. Như vậy ông giữ chức Thủ Tướng suốt 32 năm liền. Ông được mô tả như một người Cộng Sản quá khích và giáo điều nhưng khéo léo trong giao tế cá nhân: không đụng chạm Trường Chinh (thân Trung Hoa Cộng Sản), không đụng chạm Lê Duẩn (thân Nga nhiều hơn), không bộc lộ phản ứng như Võ Nguyên Giáp. Ông là gạch nối được sự tín nhiệm của các đảng viên Cộng Sản ba miền Bắc-Trung-Nam.
Nelson Mandela (1918-2013) là người chống chế độ kỳ thị của người Da Trắng ở Nam Phi. Ông bị chánh quyền da trắng ở Nam Phi cầm tù 27 năm (1963-1990). Năm 1993 ông được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Năm 1994 ông đắc cử Tổng Thống Nam Phi. Năm 1999 ông không tái ứng cử. Trước đó một năm ông cưới người vợ thứ ba, bà Graca Mache, góa phụ của Tổng Thống Mozambique sau khi ly dị bà vợ thứ nhì. Ông mất ngày 05-12-2013. Có 90 nhà lãnh đạo trên thế giới đến tham dự đám tang của ông. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma muốn đến tham dự nhưng chánh phủ Nam Phi không cấp chiếu khán vì nước này đang được Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc viện trợ kinh tế nên không muốn phật lòng Beijing.
Nikita Krushchev (1894-1971) là người Ukraine lên làm đệ nhất bí thơ đảng từ năm 1953 đến 1964 và kiêm chức thủ tướng từ năm 1958 đến 1964. Ông được thế giới đặc biệt lưu ý về vụ đàn áp biểu tình ở Ba Lan và Hung Gia Lợi năm 1956; việc Liên Sô phóng vệ tinh nhân tạp Sputnik năm 1957; bang giao căng thẳng với CHNDTQ; việc ông cởi giày và đập lên bàn tại Ðại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc. Dưới sự lãnh đạo của ông, Liên Sô giảm bớt khám đường và trại lao động cải tạo (gulags). Ông chủ trương hạ bệ Stalin, sống chung hòa bình với phương Tây, gia tăng mức sản xuất nông nghiệp bằng cách khai thác đất hoang ở Kazakhstan. Việc CHNDTQ thí nghiệm bom nguyên tử thành công năm 1964, việc thất bại trong chánh sách nông nghiệp và việc tháo gỡ hỏa tiễn Liên Sô ở Cuba dẫn đến sự rút lui của ông khỏi chánh trường. Ông chết lặng lẽ năm 1971.
Franklin Delano Rooseveld (1892-1945) là luật gia và nhà lãnh đạo xuất sắc của Hoa Kỳ từ thời kỳ khủng hoảng kinh tế đến năm 1945. Năm 1921 ông bị bịnh sốt tê liệt, chân không đi được nhưng may mắn được chữa khỏi. Ông là Tổng Thống đắc cử bốn lần trong lịch sử (1932, 1936, 1940, 1944), giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế, tuyên chiến với phe Trục và lãnh đạo các nước Ðồng Minh đến chiến thắng, thành lập tổ chức Liên Hiệp Quốc v.v… Ông mất sau khi nhậm chức Tổng Thống nhiệm kỳ thứ tư được vài tháng.
Gamal Abdul Nasser (1918-1970) là người hùng và lãnh tụ độc tài ở Ai Cập sau cuộc đảo chánh năm 1952. Ông thành công trong việc quốc hữu hóa kinh đào Suez, sáp nhập Syria, nhờ Liên Sô viện trợ để xây đập Assouan. Nhưng ông thất bại nặng nề trước Do Thái trong Chiến Tranh Sáu Ngày năm 1967. Sau khi ông chết Sadat lên làm Tổng Thống. Sadat không thành công trong cuộc chiến chống Do Thái năm 1973. Ông thay đổi đường lối: hướng về Hoa Kỳ chớ không hướng về Liên Sô, bang giao với Do Thái để thu hồi lại bán đảo Sinai. Vì đường lối nầy Sadat bị ám sát chết năm 1981.
Phạm Ðình Lân, F.A.B.I.