Trúc Chi
Về một cái địa chỉ
Mở ngăn kéo để tìm địa chỉ mới của một người bạn vừa đổi chỗ ở mà tôi đã ghi vào một mẩu giấy rồi thẩy vào đó hồi tháng trước, tôi đã gặp lại nhiều thứ nằm mỏi mòn năm này qua năm kia. Ngày tháng đọng lại trong cái hộc bàn ấy. Có nhiều thứ có thể vứt đi. Có nhiều thứ không thể vứt được. Có nhiều thứ mình không nỡ vứt. Sao mà nó lại tợ như cái đống ngổn ngang trong lòng tôi vào phút này, một người vừa hăm hở vừa ê chề với tất cả những gì là cảm, là xúc trong cõi nhân sinh già khằng này.
Cái ngăn kéo này, ngày trước thật ra cũng không đến nỗi lộn xộn. Nhưng mà sau vụ động đất cách đây nhiều năm, tôi thẩy vào đó nhiều thứ đã rơi vung vãi trong cơn chuyển mình của lòng đất. Rồi thì làm biếng, không những không chịu sắp xếp lại cho gọn, tôi lại quẳng thêm vào đó nhiều thứ không có họ hàng chi với nhau. Những vật nằm trong hộc bàn bản lai đành là vô tri vô giác. Nhưng mà tôi nghĩ rằng, nếu chúng có một loại tri giác nào đó, tương tự như thất tình của chúng ta, của loài người, thì vào một lúc nào đó, hẳn chúng cũng buộc phải nghĩ rằng địa ngục chính là những thứ xung quanh chúng. Tôi đang nghĩ đến câu nói vọt ra từ cửa miệng một nhân vật của ông tổ sư thuyết hiện sinh.
Đã đành, ông J.P. Sartre có lý do của ông khi viết câu đó. Và chính tôi, nhiều lúc sống ở nước Mỹ này, nghe và thấy thiên hạ tất tả ngược xuôi theo rất nhiều những thứ, những điều trái ngược hẳn với những gì mà suốt cả đời tôi, tôi đã trót chủ quan mà cho là đẹp, là hay, những phút ấy, chính tôi cũng đồng ý với câu nói nặng chở một tư tưởng thiếu vị tha, nếu không hẳn là vị kỷ. Câu nói của một người, vào một phút nào đó, bỗng nhiên không còn kiên nhẫn được nữa với đồng loại. Tôi chợt nghĩ rằng hình như đồng loại của tôi là giống động vật duy nhất có khả năng hành hạ nhau, giết nhau, mà giết từ từ, giết chầm chậm, giết hàng loạt. Cứ vào thư viện tìm tài liệu về trại tập trung của Đức Quốc Xã, về quần đảo Goulag, về trại lao cải bên Trung Quốc và gần chúng ta hơn nữa – gần quá – những trại cải tạo rải rác khắp nước sau tháng 4 năm 1975, cứ dở sách vở mà liếc qua sơ cũng đủ… lợm giọng rồi. Cầm thú, có loại gọi là ác thú ác điểu, có thể dữ mà không ác. Đồng loại của tôi lại khác. Khác quá!
Tôi viết những hàng trên đây vào một phút bực mình sau khi liếc qua trang đầu tờ nhật báo lớn. Hiếp dâm, bắn giết, bắt bớ phi pháp, hành hạ kẻ vôi tội, hối mại quyền thế, tham nhũng, cướp bóc. Ở vào giữa thế kỷ thứ 19, Charles Baudelaire đã từng than dài rằng mỗi lần cầm lấy một tờ nhật báo, ông thấy cần phải rửa tay vì nó chứa quá nhiều những điều bẩn thỉu. Có vẻ như từ ngày ấy đến nay, tuy có thêm một đôi thứ giúp cho con người được thoải mái hơn khi ngồi yên một chỗ (như cái máy lạnh chạy rù rù vào những hôm trời nóng bức), hoặc khi di chuyển (như xe hơi, xe buýt), nhưng vẫn chưa có ai tẩy bớt được trong não bộ của sinh vật thông minh nhất địa cầu những ý nghĩ làm động cơ cho những điều tôi vừa mới thấy trên trang báo.
Thú thật, bực mình rồi tôi cực đoan chút xíu vậy thôi, chớ còn thường nhật tôi không bi quan đến độ đó đâu. Bởi vì xa gần tôi vẫn còn một số người quen biết, một số bạn mà tôi không liệt vào hạng ‘những kẻ khác' trong câu nói của Sartre. Trong số có anh bạn có địa chỉ nằm trong hộc bàn. Thật ra, mẩu giấy vàng ấy cũng dễ thấy giữa cái ngổn ngang, bề bộn rộng khoảng chín mười tấc vuông. Nhưng trên đường đi đến địa chỉ ấy, tôi đã tần ngần dừng lại và ghé vào nhiều nơi, nhiều chốn.
Đầu tiên là một cuộn phim cũ chưa đem đi rửa (tại sao cho đến giờ này nó vẫn chưa được đem đi rửa thì chỉ có trời biết) mà tôi cầm lên ngắm nghía mãi, lục lọi mãi trong trí nhớ xem chụp hồi nào, chụp những gì. Đáng lẽ cứ cho vào túi áo, đem ra chợ Lucky thì một tiếng sau là biết ngay, nhưng mà tôi nghĩ rằng nếu quả có những khung ảnh thật đặc biệt thì hẳn tôi đã đem đi rửa từ lâu rồi. Vậy là tôi lại thẩy nó vào vị trí cũ!
Thứ đến là một tấm ảnh chụp vào hồi gia đình tôi mới sang đây. Ngắm kỹ – ai mà không ngắm kỹ hình của chính mình – tôi thấy vẻ mặt tôi hơi thiếu tự tin! Cái thiếu tự tín của một người lần đầu tiên trong đời thấy mình mất nước, hiểu theo một nghĩa nào đó. Tác giả tấm hình cũ rích đó là một người Mỹ gốc Ba Lan, không có họ hàng chi với cô Monica Lewinsky, vốn không phải là một trang nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, nhưng mà cô đã làm cho cái ghế tổng thống của ông Bill Clinton suýt đổ. Nói ra thì những chỗ bà con họ hàng, quen biết xa gần bên phái nữ họ nguýt họ lườm tôi, chớ thật tình, cho đến thế kỷ XXI này, có một số đàn bà vẫn còn nguy hiểm thật. Anh bạn gốc Ba Lan này theo cha mẹ di cư qua đây sau thế chiến II. Lúc trao tấm hình này cho tôi hồi năm 1978 đã vỗ nhẹ vào vai tôi mà nói:
“Gia đình tôi và chính tôi cũng đã từng khổ sớ với cái tâm trạng của người vô tổ quốc. Anh cứ can đảm. Nước Mỹ này chưa phải là Thiên Đường đâu. Nhưng tôi nghĩ rằng nó vẫn khá hơn cái nơi mà anh vừa rời bỏ.”
Tôi không quá phiêu lưu mạo hiểm tuy vẫn thích tìm kinh nghiệm mới trong cuộc sống. Trong gia đình, ở nhà trường, không ai dạy tôi là ra đời phải biết khuyên người này kẻ khác, điều nọ điều kia. Lớn lên, có một thời gian may mắn được dịp mở mắt ra mà nhìn kỹ lối sống của con cháu William Shakespeare, Christopher Marlowe, tôi học được một câu châm ngôn của người Anh mà tôi rất thích: “mình cứ sống, nhưng cũng phải để cho thiên hạ sống” (live and let live). Nhưng bây giờ thì tôi mạnh dạn kết luận, như một lời khuyên, rằng mất nước là một loại kinh nghiệm không nên có! Tổn thọ lắm. Mà nếu có lỡ rồi thì không nên ‘thử' lại một lần thứ hai. Rất không nên.
Tôi vốn không mặn nồng với những chuyện được gọi là ‘vấn đề lớn' của nhân loại. Quả trứng và con gà mái, thứ nào có trước? Trước khi lọt lòng mẹ ta ở đâu? Bỏ cái tấm hình hài này rồi ta đi về đâu? Chừng vài nghìn năm nữa, con người sẽ như thế nào? Ừ thì những lúc ngắm một đóa hồng đã héo úa còn vương trên đài hoa, nhìn lớp sóng bạc đầu tan biến trên biển cả, lắng nghe tiếng hót của một loài chim lạ mất hút giữa thinh không... Quả tôi cũng có nghĩ đến chuyện sống và chết của tôi, của vạn vật. Nhưng mà nghĩ thoáng vậy thôi, làm biếng, không nghiền ngẫm được cho lâu. Thật ra, nghĩ cho lâu nó cũng không đi đến đâu cả.
Nhưng mà tôi vẫn ngắm cuộc đời, cuộc sống với một cái nhìn lúc tha thiết, lúc dửng dưng. Tôi đoán non đoán già rằng có lẽ vì quả đất xoay quanh mặt trời và địa cầu xoay quanh chính nó từ thủa tạo thiên lập địa cho đến nay – cái gì hoặc ai tạo ra không phải là thắc mắc của tôi vào phút này – cho nên cảm xúc, tình cảm của con người cũng theo hai cái vòng ấy mà loay hoay quanh quẩn mãi trong vòng yêu ghét, vui mừng buồn giận! Dĩ nhiên cách biểu lộ có khác, tùy người, tùy lúc, tùy trình độ văn minh, tùy từng nền văn hóa. Xin dẫn chứng sơ sơ về cách biểu cảm giữa một đôi nam nữ (tôi mượn kinh nghiệm của người khác, vì nói mãi về chính mình cũng… chướng, mà cũng bất tiện):
Ngày còn nhỏ, một buổi đi chơi trăng với thằng bạn lối xóm, tình cờ tôi thấy hai anh chị lớn, cũng lối xóm, trò chuyện với nhau trong một góc vườn. Hai đứa tôi nấp sau một gốc nhãn rình một lúc xem họ ‘làm gì'. Nhưng mà chỉ thấy họ thì thầm. Lúc ra về họ cầm tay nhau một hồi lâu. Rồi hết. Những buổi gặp gỡ lén lút vụng trộm như vậy ngày trước người ta gọi là ‘đi trai gái'. Sau này, tôi nhớ tôi cũng có đi trai gái như vậy. Đó là chuyện cách đây ngoài nửa thế kỷ tại nước ta. Bây giờ, tại nước Mỹ này, một anh bạn văn thuật lại rằng, hôm đưa người bạn gái Mỹ về nhà cô ta sau một buổi tối đi chơi với nhau, anh bị ‘hit and run', bị đánh du kích. Anh nhận được một cú hôn không chờ đợi. “Tôi vừa cảm cái mềm của môi (nàng) thì mặt nàng đã xa mấy tấc. Té ra hôn môi chỉ có vậy. Tôi nghe nói hôn phải thè lưỡi ra để lục lọi tùm lum…” (1) ( Lục lọi tùm lum quả là ngôn từ của các ông Hồ Biểu Chánh, Vương Hồng Sển và Kiệt Tấn, ngôn từ của Xứ Đồng Nai, giản dị mà linh động thiệt!)
Giữa những giây phút bịn rịn cầm tay nhau và cái hôn bất ngờ kia là một khoảng thời gian hơn 50 năm và một khoảng cách dài gần nửa đường xích đạo. Nguyên nhân là một chút yêu thương khá đậm đà khó quên. Rung cảm trong lòng người đứng trước tất cả những gì, tất cả mọi thứ… nó làm cho mình rung động, có vẻ xưa nay vẫn vậy. Lộ ra ngoài, nó thành ra hai bàn tay nắm lấy nhau và một chiếc hôn mang nặng tính chất đột kích. Nhưng mà hình như tôi lại sắp sửa lạc vào một vấn đề khá phức tạp, khá ‘lớn' như tôi vừa nói trên đây: vấn đề bản thể và hiện tượng. Thôi, dẹp! Bởi vì tôi đã chán ngấy loại ngụy biện của một số các lý thuyết gia chính trị, nhất là các môn đệ trung thành của Marx và Lénin, vẫn cứ thích sử dụng một trong hai bộ phận không xương trong cơ thể con người để mà lắt léo rằng bản thể tốt mà hiện tượng xấu.
Tôi muốn trở về với nỗi buồn và niềm vui khi dừng lại ở cái trạm thứ ba này: một tấm thiếp mời giấy trắng mực đen đơn giản. Một tấm thiếp mời vợ chồng tôi đi ăn cơm tối để đánh dấu một cuộc hôn phối, mà lại không phải là tiệc cưới. Vậy mới rắc rối. Xin gỡ rối:
Người gửi tấm các này là Huệ, tên một loài hoa được xem là tinh khiết, thường vẫn được những bàn tay cẩn trọng cắm vào bình bông mà đặt lên bàn thờ. Nhưng mà bàn tay của cuộc đời lại không nâng niu người bạn gái mang tên Huệ này. Ba đời chồng, bốn đứa con hai dòng và một tấm nhan sắc mà dù không nhìn kỹ tôi cũng thấy là đã loáng thoáng bóng chiều vào cái hồi Huệ gửi cho vợ chồng tôi cái thiếp mời cách đây vừa tròn sáu năm: Mùa Xuân năm 1994, Huệ mời chúng tôi để ‘trình diện' ông chồng thứ tư. Ở khoảng trống bên dưới hàng chữ in là nét bút của Huệ, mềm mại mà không ẻo lả: “Anh chị đến cho vui, không phải cưới xin gì đâu. Cấm đem quà.”
Tôi hiểu. Đàn bà, dù có phớt đời đến độ nào đi nữa, ai mà muốn đem cái số long đong của mình ra làm đề tài cho chuyện nhỏ to không thể tránh được của cả bàn dân thiên hạ trong một buổi tiệc cưới nổi đình nổi đám bốn năm chục bàn, có em-xi song ngữ, có chào bàn chào ghế, có nhảy đầm nhảy đìa, thay áo thay xống, cắt bánh cắt trái, bà con hai họ đa số lại là con cái ba bốn dòng của một đôi tân nhân mà không ai dám mở miệng chúc cho được bách niên giai lão, bởi vì tuổi tác của đôi trẻ tổng cộng vừa đúng một trăm lẻ tám. Cứ như là võ công của Lệnh Hồ Xung, một chiêu mà đến 108 thế biến. Nhưng đã là đàn bà, ai lại không muốn có một chút gì đó để đánh dấu một lần sang ngang, dù rằng đây là chuyến thứ tư. (Kể cũng hơi nhiều). Do đó mới có bữa cơm thân mật mà vợ chồng tôi có đến dự. Bữa cơm thân mật và vui thật. Chuyến đò thứ tư này trong đời Huệ, lúc đầu thì thuận buồm xuôi gió cả, sau lại không được êm chèo mát mái. Cũng tội nghiệp.
Không cần đến một bảng thống kê chi li nhiều tiểu tiết, ai cũng đã biết rằng trắc trở trên đường tình duyên, công danh, sự nghiệp thì đành là hết chín mươi chín phần trăm nhân loại là trắc trở rồi. Vì tự trọng, tự ái, hoặc vì bẩm sinh tính tình kín đáo mà thiên hạ không nói ra hết đấy thôi. Tôi chợt nghĩ rằng, con số 99% kể ra cũng còn lạc quan lắm. Trong thực tế, e chỉ còn có một nửa phần trăm trong cái cõi người ta này là được phom phom trên xa lộ từ đầu đến cuối. Chi tiết của một buổi tiệc cưới long trọng mà tôi vừa liệt kê trên đây thật ra không phải là do tôi nghĩ ra. Ngoại trừ chuyện võ công của Lệnh Hồ Xung là ‘lời bàn Mao Tôn Cương' của tôi, còn thì tôi chỉ tóm lược lời của Huệ trong một buổi ngồi nói chuyện với nhau ở Việt Nam. Đọc lại, tôi thấy giọng văn hơi có vẻ châm biếm, dù trong thâm tâm tôi không có ác ý với một người bạn tốt. Thật ra, dù là số long đong, bị đời nhồi cho thất điên bát đảo, mà Huệ vẫn tỉnh táo nhờ vào khả năng tự trào bẩm sinh.
Cách đây chừng non một năm rưỡi, tôi gặp Huệ ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Tôi chờ chuyến bay đi Hà Nội. Huệ và con gái – con đời chồng thứ hai – sửa soạn đáp chuyến phi cơ đi Đài Bắc trên đường qua Mỹ sau mấy tuần lễ về thăm nhà. Sau mấy phút vui mừng và ngạc nhiên, thấy còn có khá nhiều thì giờ, chúng tôi kéo nhau đến ngồi giải khát. Lúc con gái Huệ đừng dậy dạo xem mấy quầy hàng trong phi cảng, chưng bày nhiều món khơi động tính hiếu kỳ của du khách ngoại quốc, tôi hỏi:
“Huệ thường luôn?”
Vì quen nhau đã lâu, cho nên trong câu nói vô thưởng vô phạt ấy tôi tự cho mình cái quyền tò mò mà xía một chút xíu vào đời tư của Huệ trong cách hỏi, trong cái nhìn của tôi hướng thẳng vào đôi mắt của Huệ. Đôi mắt không đẹp nhưng mà to, hơi ngây thơ nữa là khác. Tôi chợt nhận ra rằng vẻ ngây thơ này là nét độc nhất không thay đổi trên mặt Huệ qua mấy chục năm mà chúng tôi quen biết nhau. Còn thì thân hình gọn gàng cân đối ngày trước nay cũng đã mất đi một phần nào cái quân bình sexy mà thiên nhiên đã phú cho Huệ. Da trên bàn tay trông đã giảm tính đàn hồi. Tôi không muốn rà từng chi tiết trên khuôn mặt vẫn còn xinh, nhưng đã kém tươi của Huệ. Bốn đời chồng với ngần ấy tuổi thì còn tươi được vào cái khổ nào! Đàn bà họ thích giấu tuổi nên tuy biết tôi cũng không nói ra làm chi. Bất lịch sự.
Bắt được cái tò mò trong cách hỏi của tôi, Huệ tủm tỉm:
“Huệ tưởng anh nghỉ làm báo đã lâu rồi.”
“Nghỉ làm báo là một chuyện. Còn cái tật ưa đào bới lăng nhăng là chuyện khác.”
Cố ý giữ im lặng để chờ câu trả lời của Huệ, tôi kéo mạnh mấy hơi thuốc thật dài để… dự trữ vì lên máy bay không hút được. Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn, tôi tự thêm cho mình một chuyện lo xa nữa là… tích khói phòng thèm. Qua hai tuần lễ đi đây đi đó trong nước, tôi thấy có vẻ như tự do hút thuốc trong tiệm ăn, trên xe lửa, trong khách sạn là loại quyền độc nhất được tôn trọng trong nước. Dân ghiền phì phèo thả cửa. Còn như mọi thứ tự do căn bản của người công dân, có ghi rõ trong hiến pháp, thì nghe đâu lại bị hạn chế hoặc tước đoạt cả. Vậy mới tréo cẳng ngỗng.
Lần này Huệ nhoẻn miệng cười:
“Bây giờ thì Huệ yên thân rồi. Sợ rồi. Bước đi một bước là một tiếng bạc. Thua hoài. Mà vốn liếng Huệ thì mỗi ngày càng hao hụt. Vui với con cái cũng đủ rồi. Không dám yêu thương chi nữa.”
Tôi cất tiếng ‘bình luận về thời cuộc':
“Huệ nói vậy chớ chuyện yêu thương nó đến bát ngờ lắm. Thường những lúc mình không dám như Huệ nói, sức thẩm nhập của nó càng mạnh, nó lọt vào lòng mình từ đủ mọi ngả, mọi hướng. tứ diện thọ địch. Còn nguy hiểm hơn những khi… dám nữa!”
Đôi mắt to của Huệ chợt tối lại, thoáng một chút suy tư. Giọng buồn buồn, Huệ nói:
“Thiệt ra, sau bữa cơm tối ở Santa Monica, Huệ nghĩ là Huệ cũng đã được yên thân rồi. Anh còn nhớ chớ. Không biết anh chị có vui không, nhưng mà Huệ vui lắm, sung sướng lắm…”
Có tiếng động cơ máy bay đang cất cánh. Tiếp theo đó là tiếng cười nói huyên thuyên của một toán du khách ngoại quốc. Tiếng chén dĩa lách cách. Loại âm thanh này, không lấy gì làm êm dịu lắm, khiến tôi nghĩ rằng không nên chọn phi cảng làm nơi tỉ tê với nhau. Nhất là vào khoảng mười giờ sáng. Cái khoảng thời gian ấy, cứ như kinh nghiệm ít ỏi của tôi, khó mà mơ mộng, khó mà lãng mạn lắm. Mới ăn xong một tô phở, tô hủ tiếu, tô bún bò hay một vài thứ tỉm xắm hải vị Quảng Đông, thường tôi vẫn thấy khó nghĩ cho ra môt cái tứ thơ êm dịu, những phút cao hứng mà định gieo vần. Tuy rằng bắt đầu bằng vần ‘th'cả đấy, nhưng mà thịt thà với thơ lại không ưa đi với nhau.
Chờ cho mọi tiếng động xung quanh đã lắng bớt, Huệ nói rằng bữa cơm tối hôm ấy, Huệ tổ chức rất giản dị vì những lý do mà tôi đã kể lại trên đây. Cuối cùng là một lý do rất gần con người Việt Nam và rất đàn bà:
“Huệ cứ sợ làm linh đình như mấy… lần trước, ông Trời ổng phạt mình. Vậy mà…”
Phải rồi, tại ông Trời hay tại ai thì tôi không biết, nhưng mà đời vốn đầy rẫy những mơ ước đơn sơ, những mộng mơ giản dị, tầm thường, mà không cứ là chỉ riêng trong vòng hôn nhân, tình ái, những ước muốn tưởng như dễ nắm được, dễ như bỡn, té ra… bắt hụt tuốt. Cho nên tôi nghĩ rằng những lúc tâm sự với bạn thân, những khi ngồi một mình mà đối diện với chính mình, những ngày u cư, những giờ độc sử, ngồi làm lại một vài phép cộng phép trừ của nhiều thứ trong cuộc đời mình, hẳn phải có rất nhiều người – nhiều lắm, trong số có tôi – sẽ chép miệng để buông ra hai tiếng ‘vậy mà' thoáng một chút ngậm ngùi tiếc nuối. Tôi sực nhớ hai câu của Nguyễn Bính… Xây bao nhiêu mộng thế mà/ Đến nay phải gọi người là cố nhân…
Có tiếng loa mời hành khách đi Đài Bắc chuẩn bị lên máy bay. Con gái của Huệ trở lại bàn tay xách cái túi ni-lông lớn, nhét chặt mấy bức sơn mài khổ nhỏ. Huệ hỏi:
“Con mua gì nhiều dữ vậy. Bên nhà còn mấy cái mua kỳ trước, để trong ga-ra, chưa có chỗ treo.”
Cô gái cao hơn Huệ cỡ mười phân, nhưng mà giống mẹ như đúc, chừng được mẹ cưng chiều lắm, nghiêng đầu cười nghịch ngợm :
“Mấy bức ở nhà toàn hoa lá gì đâu hà. Đây là tranh dân gian. Để con kiếm chỗ treo cho. Má khỏi làm. Mà không có chỗ thì con... đem cho bạn. Rẻ rề hà.”
Huệ khẽ lắc đầu:
“Anh coi, mai lan cúc trúc Huệ mất cả mấy tiếng đồng hồ mới lựa được kỳ về nước chuyến trước mà cháu nó gọi là... hoa lá gì đâu. Đưa đây, đưa má xách giùm cho.”
Nhìn hai mẹ con Huệ lẩn trong đám hành khách tay xách nách mang chuẩn bị ra phi cơ, tôi thầm mong rằng đời người con gái xinh tươi này sẽ được song suốt hơn, khác với đời của Huệ.
À,.. cuộc đời Huệ. Cả một thiên chuyện đó chớ. Người chồng thứ nhất là mối tình đầu, có ăn có học có tiền mà lại thô lỗ theo kiểu lông nách một nạm chè tàu một hơi. Đã vậy, anh lại còn vũ phu đánh đập Huệ có lần sưng tím cả mặt mũi. Ở không được nữa, Huệ bồng con về nhà mẹ. Đáng lý ra thì đời Huệ cũng đã được yên ổn với người chồng thứ hai là sĩ quan pháo binh, hiền lành, chăm chỉ, mặt mũi thanh tú. Sinh ra giữa thời loạn rồi anh thành quan võ, nhưng mà tướng quan văn. Khác với danh tướng Triệu Tử Long, xông pha trăm trận mà lại được chết yên ổn ở nhà khi về già (hình như là nhờ sao Thiên Lương và Trường Sinh miếu địa cư mệnh có Đế Vượng bàng chiếu, thọ là phải), khác với người anh hùng này ở trận Đương Dương Trường Bản, người sĩ quan pháo binh bất đắc dĩ này, tướng quan văn mà số lại bất đắc kỳ tử. Anh bị tử thương trong một trận đánh vùng Chưong Thiện chừng hai năm sau khi lấy Huệ. Người chồng thứ tư và Huệ bỏ nhau vì lý do nào tôi không biết mà cũng không muốn hỏi làm chi. Còn người chồng thứ ba thì mê Huệ đến cuồng dại mà lại không biết yêu. Tôi viết vậy nhưng mà chính tôi cũng không biết ‘biết yêu' là thế nào. Chỉ nghe Huệ thuật lại rằng Huệ thấy ngột ngạt vì cái kiểu yêu rất ích kỷ của người chồng mà Huệ nói là ‘lớn rồi mà còn con nít', ích kỷ đến độ có lúc anh ghen bừa ghen bãi, ghen luôn cả với quá khứ của Huệ. Thành thử không bền được.
Cả một cái cốt phong phú cho một thiên truyện dài. Nhưng mà tôi không nghĩ đến việc viết một quyển tiểu thuyết về đời Huệ, một cuộc đời nhiều sóng, nhiều gió, tự tạo cũng có, mà trời giáng cũng có. Cuộc sống tự nó đã là một cái thư viện khổng lồ rồi. Cứ dương mắt, chong đèn mà ‘đọc', thâu ngày thâu đêm, e đến ngàn kiếp cũng không nghiến hết những trang đời đầy ắp cái sống nguyên chất, không pha trộn, không giả tưởng (có nơi gọi là hư cấu). Cuộc sống, có những lúc sự việc xẩy ra kể như là không đầu không cuối, không có thứ lớp, thiên hình vạn trạng như cái sinh nở tàn lụi của thảo mộc, cái cấu xé nhai nuốt của dã thú, của côn trùng trong rừng già mênh mông ở lưu vực sông Amazon.
Xét kỹ, tôi thấy mình không có khả năng sắp xếp, xén tỉa cho cuộc đời vừa gọn vừa dồi dào vừa ‘sống' như tình tiết trong một số danh tác mà tôi đã đọc được, những quyển sách mà nội dung khiến cho độc giả ‘ cầm cuốn truyện lên đọc là người ta đã thấy tất cả những thứ đó xao động trên mặt giấy, ' như lời Viên Mai Thức, trong bài bạt viết cho bộ Kim Bình Mai.
Viên Mai Thức cũng có viết một câu mà tôi khoái lắm, bởi vì ý nghĩa câu văn rất hợp với tính tình của tôi: “ ta bẩm sinh hiếu động nên việc học hành không được uyên thâm, lại thêm tính lười biếng nên lâu ngày cũng bỏ cả học vấn, có điều, thói cũ thư sinh thì vẫn còn chửa quên, cho nên rất thích tìm kiếm các chuyện xưa nay, sở thích này mỗi lúc một tăng… ” (2)
Bậc danh sĩ này, sống vào đời nhà Thanh bên Trung Quốc, có được thói cũ thư sinh, ưa tìm văn chương kim cổ mà nghiền ngẫm, còn tôi thì tuy cũng có tò mò với chữ nghĩa, nhưng lại không được cao khiết như vậy, tôi chỉ giống ông ở cái điểm ngồi một chỗ không yên và lười biếng. Tôi ưa lục lọi đào bới mà sống với những thứ vô hình ở ‘đằng sau, bên dưới' những thứ tình cờ bắt gặp rải rác dọc đường như là… như là cuộn phim cũ, tấm hình đã phai cả nước thuốc và cái tấm các của Huệ mời ăn cơm tối khi mở hộc bàn viết mà tìm địa chỉ của một người bạn, vào một lúc phát cáu mà nổi đóa – nếu không hẳn là ‘nổi xung' nói theo kiểu Huế của tôi – với mấy cái tít lớn ở trang đầu của một tờ nhật báo sáng hôm nay!
Lại còn một tờ giấy mà tôi đã cầm lên cùng một lúc với cái địa chỉ nọ. Tờ giấy đã giúp cho tôi bình tĩnh lại sau một phút bực dọc với mấy cái tít báo. Nó chỉ cách làm một món nhậu, đầy đủ chi tiết từ cách sửa soạn vật liệu cho đến lúc dọn lên bàn. Tác giả của những lời dặn dò này trong chuyện bếp núc, một chị bạn quê ở Mỹ Tho, khi ghi lại cách làm, đã viết: “…tỏi lột vỏ giã nhỏ để riêng… tôm rửa sạch xong, lau khô để đó… vặn lò lên đổ chừng năm sáu muỗng dầu vô chảo… vắt vài giọt nước chanh cho hơi chua chua… gần ăn rắc chút tiêu hành cho thơm… vân vân”. Văn viết thì không nói làm chi chớ còn những câu nói hằng ngày có nhiều chỗ ‘thừa' duyên dáng dễ thương như vậy. “Để riêng… để đó…' cần phải được hiểu là mọi thứ phải được chuẩn bị sẵn sàng, không nên hiẻu theo nghĩa ‘đem đi chỗ khác hoặc cất kỹ!' Có ai xào nấu mà không vặn lò lên bao giờ; chanh gây vị chua; tiêu bốc mùi thơm, ai không biết. Vậy mà mấy hàng chữ ghi vội kia quả đã cho tôi thấy được cái tăn măn tỉ mỉ của người nấu nướng có hạng và một chút xíu chăm chút đối với tác phẩm của mình. Tấm lòng đó rất cần cho khẩu vị của bất cứ một món ăn nào, dù là đơn giản như một đĩa rau luộc, một chén muối mè. Nấu nướng là một nghệ thuật. Có tác phẩm nghệ thuật nào có giá trị mà lại không chở chút tình mà tác giả đã gửi vào đấy.
Cái kiểu ngồi nghĩ vẩn vơ này quả có mất thì giờ thật, nhất là thì giờ ở tiểu bang mà kinh tế đang phát triển mạnh mẽ, khoẻ như cơ thể của một thanh niên cường tráng. Thì giờ ở đây quả được quí như vàng, dù rằng giá vàng trên thị trường quốc tế vẫn hạ đều trong mấy năm gần đây. Nhưng mà không say sưa với những điều vớ vẩn như vậy lại không có chuyện mà viết. Thôi thì mỗi ngòi bút có một cách say của nó. Bởi vì, nói như Nguyễn Du, một người đã từng chứng kiến và sống qua bao nhiêu là đổ vỡ ở ngoài đời và trong lòng ông:
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu
Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi
(Lúc sống mà không uống cạn rượu trong chén thì sau khi đã chết, ai là người đem rượu mà rưới trên nấm mồ của mình)
Tôi vẫn thích để cho chữ nghĩa của tôi chuếnh choáng theo chất men của những thứ vụn vặt. Ấy là chưa kể chuyện mất thì giờ theo men thiệt của rượu thiệt mà tôi cũng ưa tìm kiếm, gần gũi.
Nhưng mà… đó là chuyện khác.
Trúc Chi
(Trích từ 'Gỗ và Đá')
__________
Chú thích:
(1) Giữa Hai Miền Mưa Nắng , Hoàng Mai Đạt, nxb Văn Nghệ, California, 2000.
(2) Kim Bình Mai, Vương Nguyên Mỹ, bản dịch của Giáo sư Nguyễn Quốc Hùng, nxb Chiêu Dương, Saigon, 1969.
***
Tiểu sử
Trúc Chi là bút hiệu của Tôn Thất Kỳ. Sinh năm 1934. Học ở Huế và Đà Lạt. Vào ngành thông tin báo chí năm 1960. Tại Luân Đôn, biên tập viên ban Việt Ngữ đài BBC. Sau khi rời đài BBC vào năm 1967, ông được nhận làm thông tín viên của thông tấn xã Reuter. Đã được phái đi công tác ở một số quốc gia Đông Nam Á Kể cả Việt Nam. Tại Singapore, ông từng làm chủ biên ban tin tức Việt-Miên-Lào của Reuter. Dùng bút hiệu Nguyễn Phúc trong các bản tin, dịch thuật và phỏng vấn.
Đã có hai tập tùy bút được xuất bản: Đó Đây, Gỗ và Đá.
Hiện cư ngụ tại California, Hoa Kỳ