Nguyễn Văn Trần


Họ và Tên trên thế giới và ở Việt-Nam

 

I. Họ ở một số nước trên thế giới

1.- Họ của người Mông Cổ

Sau khi Cộng sản Nga chiếm và cai trị Mông Cổ năm 1925, nhà cầm quyền CS Nga đã tước đoạt quyền mang Họ của người dân Ngoại Mông để vĩnh viễn xóa sạch chế độ phong kiến. Người Mông Cổ từ đó chỉ có Tên mà không có Họ, vì vậy nên sự trùng Tên rất phổ biến. Ở Thủ đô Mông Cổ có đến mười ngàn phụ nữ mang chung một cái tên: Altantsetseg (Kim Hoa) hoặc Narantsetseg (Nhật Hoa). Mãi đến năm 1990 sau khi Liên Xô sụp đổ, người dân Mông Cổ mới có quyền tự do phục hồi lại Họ của mình. Nhưng vì đã bị xóa bỏ Họ quá lâu nên tìm lại nguồn gốc không phải chuyện đơn giản và dẫn đến mất hẳn mối dây liên hệ về tông tộc.

Hơn nữa, người dân thường xuyên bị phân tán, di chuyển khỏi quê quán theo chế độ công an trị của cộng sản, nên tìm lại nguồn gốc càng khó hơn. Để giúp cho hơn 60% dân chúng Mông Cổ hoàn toàn không biết tông tộc có thể tìm lại Họ, ông SERJEE thiết lập bản kiểm kê các Họ đã có từ trước cách mạng vô sản 1921 và phân phối theo từng vùng. Theo những tài liệu này, nhiều người dân đã phủ nhận Họ liên hệ với chính tông tộc của mình vì cho rằng cách phiên âm quá xấu. Ngược lại, nhiều người tự chọn cái Họ thật đẹp, thật kêu! Trong việc tái lập Họ, người Mông Cổ từ đó thật sự bắt đầu sống đời sống dân chủ.

 

2. Họ của người Pháp và Tây phương

Riêng tại Pháp vào những năm trước thế kỷ 13, người Pháp chỉ gọi nhau bằng "tên rửa tội" (còn gọi là "tên thánh") và không có quyền mang Họ nếu không phải thuộc giới tăng lữ hoặc quí tộc. Giới quý tộc hoặc tăng lữ mang Họ thường gắn liền với tên đất đai thuộc quyền sở hữu của mình. Ngày nay, ở Pháp có một số Họ là địa danh như họ Auteuil, Soisson, Chirac---nay vẫn còn làng Chirac ở miền Tây Nam Pháp vì nước Pháp thời xưa theo chế độ phong kiến.

Để phân biệt nhau vì trùng tên quá đông, người dân phải gọi nhau bằng biệt danh hay hỗn danh. Cách đặt tên này do một sự ngẫu nhiên, hoặc để nhắc lại một sự việc xa xưa hay để nói lên một đặc tánh. Biệt danh hay hỗn danh hoàn toàn không có giá trị như Họ, nhưng được lưu hành rất tự nhiên và có khi được truyền lại cho con cháu. Một người có tầm vóc cao vượt hơn nhiều người khác thì được lối xóm gọi Anh Cao, thay vì chỉ gọi tên riêng là Nhựt. Con trai của Cao tên Thời được mọi người gọi Thời con của Cao.

Cách gọi tên này trở thành tiện lợi trong giao tiếp hằng ngày nên được giữ lâu dài. Có một số tên theo cách " thấy mặt đặt tên" như vậy và về sau đã trở thành Họ của một gia đình.

Đến năm 1539, nhà vua định chế hóa tên họ cho dân Pháp. Biệt danh, hỗn danh được lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau như Họ chánh thức. Và cũng từ đây, hộ tịch được thiết lập để chấm dứt vĩnh viễn tình trạng dân chúng chỉ có tên mà không có Họ. Có một số Họ bắt nguồn từ thời Trung cổ do cách đặt biệt danh (ví dụ Họ Couturier-Thợ May) được lưu truyền cho các thế hệ sau. Hiện nay rất khó sưu tầm lại lịch sử của những Họ thời Trung cổ ở Pháp, vì hoàn cảnh và nguyên nhân xuất hiện của những họ đó ngày nay không còn nữa.

Đại để, chúng ta có thể phân loại Họ của người Pháp và Tây phương theo các thể loại sau đây:

Họ có nguồn gốc là tên

Để tránh trùng tên, người ta gọi tên một người kèm theo tên của người cha, hoặc do lấy biệt danh như trên đây.

Thí dụ: Pierre fils au Paul (Pierre con trai của Paul) trở thành Pierre Aupaul (Pierre là tên và Aupaul trở thành Họ của Pierre từ đây, do mượn tên Paul của cha). Martin fils de Jean trở thành Martin Dejean.

Người Á Rập và Hồi giáo cũng có cách lập Họ giống như người Pháp nhưng Họ ghép với tên các thần thánh. Thí dụ: Abd (= nô tỳ) ghép với một thuộc tính của Thượng đế (Allah) trở thành Abdal – Aziz, có nghĩa là Nô tỳ đấng toàn năng. Abd al-Karim, là nô tỳ đấng Độ lượng. Abdullah là nô tỳ của Chúa. Người Á rập và Hồi giáo cũng có Họ ghép với tên cha hoặc mẹ như Abu (= cha của) hay Umm (= mẹ của). Theo đây, Abu Musa Ali có nghĩa là Ali, cha của Musa.

Một số Họ Á rập và Hồi giáo cũng bắt nguồn từ quan hệ ngành nghề, nhơn dạng, tánh tình, tài ba, nơi cư trú, sanh quán.

Thí dụ:
- Al–Tawil, có nghĩa là người Cao.
- Al–Rashid, là người thẳng thắn
- Al–Hallaj, là người kéo sợi.
- Al–Isfahani, là người tỉnh Isfahan.

Họ do ngành nghề

Hiện nay ở Pháp có rất nhiều người sanh sống bằng nghề nghiệp liên quan xa gần với cái Họ. Như De Laporte là Họ của một Kiến trúc sư (La porte = cái cửa) hiện đang sanh sống và làm việc tại Paris 16. Tuy nhiên, có những Họ chỉ ngành nghề nhưng lại không có nguồn gốc theo từ nguyên. Như Họ Boulanger, người làm bánh mì nhưng ngày xưa người thợ làm bánh mì lại là Fournier (cũng là họ ngày nay). Họ Cuisinier mà ngày xưa người làm bếp là le queux.

Họ do nguồn gốc di dân

Những người mới đến định cư và lập nghiệp tại một vùng đất mới thường bị dân sở tại phân biệt đối xử bằng cách gọi tên nơi sanh quán. Như Ông Lallemand (Đức), Ông Hollande (Hà lan). Ở Huê kỳ có tướng Westmoreland nghĩa "miền tây còn đất nữa."

Họ do nơi cư ngụ

Người ở gần rừng có Họ là Bois hoặc Dubois, ở gần cầu có Họ là Dupont, ở gần sông có Họ là Rivière.

Họ do nhân dạng, tánh tình

Người có nước da trắng được lấy Họ là Blanc, Le Blanc; nước da ngâm là Brun, Le Brun; có nước da đen là Noir, Le Noir.

Những người mập mang Họ là Gros, Legros; hoặc cao lêu nghêu thì Lelong (Dân biểu Brice Lelong). Người trông có vẻ trẻ được cái Họ là Lejeune (trẻ); người trông già bị mang Họ Vieillard (ông già).

Người được nhiều người nhìn nhận là người tốt được gọi là Bon, Lebon. Còn bị xem là người xấu thì gán cho Họ Mauvais (xấu). Hiện nay, ở nhà thương Lariboisière (Paris 10) có một vị bác sĩ giải phẫu bộ phận tiêu hoá có Họ là Mauvais. Nhiều bệnh nhơn gặp phải Bác sĩ Mauvais đều muốn tránh chỉ vì cái tên Mauvais (xấu) sợ bị xui xẻo. Nhưng Bác sĩ Mauvais lại là một vị lương y, bởi ông rất tận tâm đối với bệnh nhơn do ông chữa trị.

Nhìn qua lịch sử các Họ Tây phương và Trung Quốc, chúng ta sẽ nhận thấy Họ của Việt Nam cũng có phần giống về mặt nguồn gốc. Điểm khác biệt nổi bật duy nhất của Việt Nam là đặc tính văn hóa nhơn bản. Việt Nam là một nước quân chủ cho đến năm 1945 khi Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố thoái vị để làm dân một nước độc lập nhưng Việt Nam lại hoàn toàn không phải là một nuớc phong kiến. Hoàng thân quốc thích hoặc quan chức có công lớn với triều đình được phong tước và cấp đất để sanh sống, nhưng phần đất này chỉ được cấp cho sử dụng có thời hạn và không có quyền lưu truyền cho người thừa kế. Họ của người Việt Nam không gắn liền với đất đai của mình làm chủ. Và điều thấy rõ ràng là mọi người Việt Nam đều có Họ và thứ dân cũng có thể mang cùng Họ với vua hoặc quan chức chánh quyền.

 

II.- Họ của người Việt

Theo thống kê của Hà Nội năm 1987, Việt Nam gồm 54 sắc tộc trong đó người Kinh chiếm đa số. Năm mươi tư sắc tộc này chia nhau khoảng 200 Họ từ vần A đến Ư. Như Họ Âu (Âu Trường Thanh) hoặc Âu Dương (có nghĩa là một vùng hoặc một địa phương nhỏ (Âu Dương Lân, Âu Dương Thệ), họ Ung như Ung Bảo Toàn. Những Họ lớn khác còn có Nguyễn, Trần, Lê... Họ người Việt Nam do xu hướng vật tổ như họ Hùng hay họ Hồng (Hùng Vương, Hồng Bàng) hoặc do hoàn cảnh lịch sử lập quốc mà thiên di từ Bắc xuống Nam và pha trộn với các Họ ở địa phương, hoặc do nơi cư ngụ và sanh quán.

1. Ảnh hưởng vật tổ

Ở Việt Nam ngày nay, chúng ta còn thấy họ Hùng hoặc Hồng, tuy Họ này rất hiếm. Ở Cao nguyên Daklak và Gia-Rai có họ Hmok Pai của người Êđê, nghĩa là con thỏ nên người dân địa phương không ăn thịt thỏ.

2. Do hoàn cảnh thiên cư lập quốc hoặc sanh quán

Những họ Nguyễn, Trần, Lê, Hồ, ... là những Họ đã có từ phương Bắc gắn liền bước Nam tiến dựng nên nước Việt Nam ngày nay.

Có những Họ trùng với Họ ở Trung Quốc nhưng lại là Họ của Việt Nam. Họ Tống nghe qua tưởng là Họ của người Trung Quốc, vì ở Đài Loan có Tống Mỹ Linh là phu nhơn của Tưởng Giới Thạch. Nhưng họ Tống (Tống Văn, Tống Hữu, Tống Phước) là Họ của tướng và một số dân quân của Nguyễn Hoàng theo ông lập nghiệp vào thể kỷ 16. Họ là những người dân sanh sống ở vùng núi Tống thuộc huyện Tống Sơn, Thanh Hoá, nơi sanh quán của Nguyễn Hoàng.

Họ Chử có lịch sử dài cả 4.000 năm như truyền thuyết về Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung. Thời Hùng vương thứ ba, có một người nghèo khổ không biết mình thuộc dòng họ nào, bèn lấy nơi ở là bãi sông (chử) làm Họ. Đó là Chử Vi Vân, ông tổ của dòng họ Chử ngày nay. Còn Chử Đồng Tử (có nghĩa là đứa trẻ ở bãi sông) là con của Chử Vi Vân.

Họ Bàng là một Họ xuất hiện tại tỉnh Hà Nam dưới triều đại nhà Trần khi Trần Thủ Độ triệt hạ nhà Lý. Ông viện dẫn lý do ông cố tổ tên Lý, nên bắt buộc những ai mang họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn. Có một người không thi hành lệnh bèn chỉ cây bàng cổ thụ ở trước nhà tuyên bố: "Kể từ nay, gia đình ta thuộc họ Bàng" (thi sĩ Bàng Bá Lân, Bàng Sĩ Nguyên).

Họ có công lớn khai mở miền Nam, mở rộng bờ cõi đất nước là họ Nguyễn. Về nguồn gốc, họ Nguyễn trước kia xuất hiện ở phương Bắc thuộc miền Nam nước Trung Quốc vào khoảng 1766 – 1123 trước Tây lịch. Lúc bấy giờ tại vùng Kinh Châu (tỉnh Cam Túc ngày nay) có một nước nhỏ tên là Nguyễn quốc. Đến đời nhà Châu (1136 trước Tây lịch), Nguyễn quốc bị Châu Văn Vương tiêu diệt. Hoàng tộc phải bôn tẩu về phương Nam, truyền lệnh cho mọi người lấy tên nước làm Họ và định cư ở vùng Khai Phong làm nguyên quán.

Theo An Nam Chí Lược của Lê Tắc, tại Giao Châu có thứ sử Nguyễn Di Chí cùng võ tướng Nguyễn Vũ Chi phá được đội chiến thuyền của vua Lâm Ấp tên Phạm Dương thường tới khuấy phá vùng này. Phạm Dương có thể là khởi tổ của họ Phạm ngày nay, thuộc gốc Chiêm Thành.

Theo tài liệu ghi chép, vào thời Bắc thuộc năm 353, thứ sử đất Giao Châu là Nguyễn Phu. Sau đó vào năm 357, một người khác làm quan cũng tại Giao Châu là Nguyễn Lãng. Con cháu của Nguyễn Phu ở lại đất Giao Châu và truyền đến đời Nguyễn Bặc là Thái tể dưới triều Nhà Đinh (thế kỷ thứ 10). Thái tể Nguyễn Bặc quê quán ở Ninh Bình và được họ Nguyễn ngày nay nhận làm khởi tổ. Họ Nguyễn có nhiều dòng và những dòng này nhìn nhận quê hương khác nhau. Dòng Nguyễn Hữu tự cho là gốc Quảng Bình hoặc dòng Nguyễn Phước lấy Thanh Hóa làm nguyên quán. Vì họ Nguyễn phát xuất từ Trung Quốc nên ở Trung Quốc cũng có người mang họ Nguyễn. Vậy họ Nguyễn Việt Nam và họ Nguyễn Trung Quốc có phải cùng một gốc là dân của tiểu quốc Nguyễn thời Xuân Thu hay không?

Ngày nay, người Việt Nam họ Nguyễn đã tìm nguồn gốc của mình đến Nguyễn Bặc là thủy tổ sống ở thế kỷ thứ 10.

Chữ Nguyễn có nghĩa là gì?

Chúng tôi đã đặt câu hỏi này với nhiều vị học giả về chữ nho, nhưng chỉ làm ngạc nhiên các vị ấy và vẫn chưa nhận được câu trả lời thỏa mãn. Gần đây được cụ Đồ Nho ở Paris giải thích rằng theo chiết tự thì trong chữ Nguyễn có bộ phụ, chỉ cái mô đất hay một vùng đất cao. Như vậy phải chăng chữ Nguyễn có nguồn gốc xa xưa liên hệ đến Nguyễn quốc?

Sau cùng, chúng ta cũng nên kể thêm một cách đặt Tên Họ vô cùng lạ lùng, gần như một thứ huyền bí. Đó là cách đặt Tên Họ của dân INUITS sống tại miền Bắc cực Canada. Sắc dân này vừa thành lập cộng đồng quốc gia NUNAVUT vào đầu tháng 4/1999 với dân số 24.000 người, trên một diện tích đất đai rộng 2.000.000 km2. Cách đặt Tên Họ của dân INUITS không chỉ mang ý nghĩa như cách đặt Tên Họ của chúng ta, tức cho người một danh xưng để giao tiếp trong quan hệ xã hội, mà còn mang một nét đặc thù văn hóa vì sắc tộc đã tồn tại từ ngàn năm qua. Đặc điểm văn hóa INUITS là lối suy nghĩ về một vũ trụ quan mới, một chiều kích khác về vũ trụ và con người. Một vị lãnh tụ quốc gia NUNAVUT cho biết ông có những đứa cháu mà phần đông trong số đó lớn tuổi hơn ông rất nhiều.

Nghe nói như vậy chắc chắn không ai không khỏi ngạc nhiên! Còn ngạc nhiên hơn, nếu có người chứng kiến một bà mẹ khi nói chuyện với đứa con gái lên mười mà "thưa ông nội". Mỗi người INUITS đều có một tên hoặc một loạt tên. Nhưng những tên gọi này lại không phù hợp theo ý nghĩa về Tên với Họ như của Việt Nam. Tên của người INUITS thể hiện một thứ bản thể của họ. Đặt tên để xác định những cá nhơn đó là ai, như để làm sống tiếp một người đã chết vì tên của người INUITS mang một linh hồn. Một đứa trẻ vừa sanh được vài ngày, cha mẹ lấy tên của một người vừa chết đặt tên con. Có khi lấy tên của người sắp chết đặt tên cho đứa trẻ mới sanh, như vậy người sắp chết biết mình sẽ được sống tiếp ở đứa bé sơ sanh ấy. Đây không phải là một sự tái sanh mà là một sự nối tiếp đời sống để đời sống được kéo dài liên tục. Do đó một đứa bé mới sanh hoặc một đứa trẻ lại có tuổi lớn hơn một người lớn, và có khi đứa bé hay đứa trẻ ấy là ông, bà của cha mẹ hiện tại.

 

lll. Tìm về tông tộc là ý thức lịch sử dân tộc, thể hiện lòng hiếu đễ

Ngày nay việc tìm hiểu dòng tộc của mình đang bắt đầu phát triển ở nhiều nơi trên thế giới. Không chỉ riêng người Việt, mà cả người Pháp cũng đã bắt đầu quan tâm tìm về cội nguồn. Ở Pháp xuất hiện nhiều sách nghiên cứu về Họ và Tên. Có những văn phòng tư nhơn chuyên về việc thiết lập Tông chi. Có những Hội và Câu lạc bộ trao đổi giúp nhau những thông tin liên quan đến những Họ mà ngày nay con cháu bị mất nguồn gốc.

Riêng việc tìm về cội nguồn của người Việt Nam ngày nay đã trở thành cần thiết, bởi hoàn cảnh đất nước chiến tranh kéo dài quá lâu. Nhiều người phải di chuyển đến nơi khác sanh sống, lánh nạn và nhiều gia đình buộc phải rời bỏ quê quán dưới chế độ cộng sản ở miền Bắc trong những năm chiến tranh. Hiện tại ở hải ngoại có hơn ba triệu người Việt Nam sanh sống như một nước Việt Nam thứ hai. Trong ít lâu nữa, những người Việt Nam của thế hệ thứ 3, thứ 4 sẽ ngỡ ngàng khi phải trả lời về nguồn gốc, tông tộc của mình.

Tìm về nguồn gốc và tông tộc của mình, về mặt đạo lý là một cách tỏ lòng hiếu đễ.

 

Ts Nguyễn Văn Trần

___________

Tài liệu tham khảo

- Nguyễn Ngọc Huy: Tên Họ người Việt Nam, MéKong tỵ nạn, Hoa kỳ, 1996.
- Phạm Côn Sơn: Tộc phả tân biên, Saigon, 1999.
- Pierre Blanche: Dictionnaire et armorial des noms de famille de France, Paris 1974
- Paul Chapuy: Origine des noms patronymiques français, Paris, 1934.
- Albert Dauzart: Les noms de famille de France, Paris, 1977.
- Annick Cojean: Le Monde, 27/08/98, Paris.
- La Croissance: Tạp chí tháng 8/99, Paris.
- Lê Trung Hoa: Họ và Tên người Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 2006

Ghi chú thêm:

Nguyễn là Họ rất phổ thông ở Việt Nam. Theo ước tính có đến 40% dân chúng mang Họ NGUYỄN .

Sau biến cố 30/04/1975, nhiều gia đình mang Họ NGUYỄN sang tỵ nạn tại hải ngoại. Ở Úc, Họ NGUYỄN chiếm 7% trong số những Họ phổ thông nhứt, chỉ đứng hàng thứ 2 sau Họ SMITH ở Melbourne (theo niên giám điện thoại), và hàng thứ 54 ở Pháp. Ở Huê kỳ, Họ NGUYỄN được xếp thứ 229 trong số những Họ phổ biến (theo ước tính năm 1990) nên Họ NGUYỄN trở thành phổ thông bên cạnh Họ DOUGLAS (257) và GILBERT (237). Nhưng theo thống kê của Social Security Index, Họ NGUYỄN đứng thứ 124

 


Cái Đình - 2012