Phạm Đình Lân


Xà Tộc và Năm Tỵ

 

Năm 2013 là năm Quí Tỵ, tức năm con Rắn. Theo Hán Việt Rắn được gọi là . Trong bài viết nầy chúng ta lần lượt đề cập đến mọi vấn đề liên quan đến Xà tộc và năm con Rắn.

 

Thân thế Xà tộc

Rắn là một loài bò sát, thân có vảy nhưng không có chân. Rắn thuộc gia đình Viperidae. Đó là loài bò sát đẻ trứng, thị giác rất kém, lưỡi có hình cái nĩa dùng để đánh hơi từ nhiều hướng khác nhau.

Rắn được tìm thấy khắp năm châu. Các đảo Iceland (Băng Đảo), Ireland (Ái Nhĩ Lan) và Tân Tây Lan (New Zealand) được xem là nơi ít rắn trên thế giới. Rắn sống trong rừng, núi, ao, hồ, sông ngòi và biển cả. Có loài rắn sống trên mặt đất phủ đầy cỏ, có loại sống trong bộng cây.

Xà tộc là một đại gia đình gồm có trên 3.000 thân thuộc khác nhau về chiều dài, trọng lượng, màu sắc và sự độc hại. Thân thuộc to lớn của Rắn là Trăn. Ở Á Châu có những con trăn dài 9m. Ở Nam Mỹ có trăn anaconda mang tên khoa học Eunectes murinus dài trung bình từ 9m đến 12m. Trăn anaconda to lớn nhất dài đến 30m. Đó là một loại rắn to lớn sống nửa đất, nửa nước. Loại rắn nhỏ nhất là rắn Braminy dài khoản 15cm. Loại rắn nầy gần như mù mắt.

Trong 3.000 loại rắn có lối 15% có nọc độc gây tử vong cho người khi bị cắn. Rắn có nọc độc đại để gồm:

- Rắn Chuông Crotalus scutulatus (rattlesnake).
- Rắn Hổ Mang Agkistrodon contortrix (copperhead).
- Rắn Mang Bành Naja naja (cobra)
- Rắn Biển Hydrophis fasciatus (Stripe Sea Snake), gia đình Elapidae.
- Rắn Mamba xanh Dendraspis angusticeps (Rắn Lục - Eastern Green Mamba), gia đình Elapidae.
- Rắn San Hô Micrurus tulvius (coral snake), v.v.

Ở Việt Nam các loại rắn độc là rắn lục, rắn hổ, rắn hổ ba khoang trắng trên đầu, rắn hổ hành (vì hôi mùi củ hành), rắn hổ mây, rắn hổ ngựa, rắn mỏ vọ, rắn mái gầm (bạch hoa xà), rắn roi, v.v… Rắn trun là một loại rắn nhỏ như con trùng đất nhưng nọc rất độc và gây tử vong cho người bị cắn.

Rắn không nọc độc gồm: rắn nước Natrix sipedon sipedon, rắn bùn Farancia abacura, rắn đen bắt chuột hay rắn đen bắt gà (chicken snake - black rat chicken) mang tên khoa học Pantherophis obsoletus, gia đình Colubridae, v.v…

Ở miền nhiệt đới rắn bắt cặp quanh năm. Ở miền ôn đới chúng bắt cặp vào mùa xuân và mùa thu. Rắn trống có hai bộ phận sinh dục. Vào mùa rắn bắt cặp thường xảy ra những cuộc tranh giành và đấu nhau giữa các rắn trống. Đó là mùa hội của rắn.

Người Việt Nam cho rằng gặp rắn bắt cặp thì xui xẻo. Nhiều người tin rằng rắn bắt cặp với mèo sinh ra linh miêu. Linh miêu nhảy qua xác chết khiến cho người chết sống lại trong khoảnh khắc. Điều nầy không thấy các nhà khoa học và động vật học đề cập đến.

Mỗi con rắn mái đẻ từ 6 đến 30 trứng. Trăn to lớn đẻ đến 50 trứng. Chỉ có trăn và các loại rắn lớn ấp trứng mà thôi. Trứng nở sau 55 hay 70 ngày. Trăn anaconda sinh con. Cũng có vài loại rắn sinh con (trứng nở trong bụng rắn mẹ).

Rắn là loài ăn thịt sống. Thức ăn của chúng la ếch, nhái, rắn mối, chuột, thỏ, các loài rắn khác, v.v... Chim là kẻ thù của rắn vì chim ăn rắn con và cả rắn lớn nữa. Những loại chim lớn và loài động vật có vú như heo, chó cầy (mongoose) xem rắn là mồi của chúng.

Rắn có thể không ăn suốt cả năm! Trong thời kỳ lột da hay ấp trứng rắn mái không ăn gì cả. Ở miền lạnh rắn mẹ chết trong thời kỳ ấp trứng vì thiếu ăn, lại phải đương đầu với tiết trời giá buốt.

Tuổi thọ của rắn sống hoang dã là 15 tuổi. Rắn nuôi trong trại để lấy nọc có thể sống đến 25 năm.

 

Xà tộc và loài người

Trăn và rắn đều cho thịt ngon. Trên châu thổ sông Cửu Long và vùng Đồng Tháp Mười có nhiều trăn như: trăn gầm, trăn núi, trăn đất, trăn nước, trăn gió,... Trứng trăn và rắn đều ăn được. Trước năm 1975 ở Cần Thơ (Phong Dinh) có quán bán gỏi rùa, gỏi rắn, cà ri thịt rắn, rắn xào lăn nổi tiếng. Ngày nay rắn được chở từ miền Nam ra tận biên giới Việt-Hoa để bán cho các nhà hàng ở Hong Kong và các thành phố ở Hoa Nam.

Thịt rắn nướng với lá lốt ăn ngon lại có lợi cho người bị phong thấp như nhiều người tin tưởng. Người ta cho rằng thịt trăn bổ gân cốt. Huyết rắn dùng để trị nhức mỏi, đau thấp khớp. Huyết trăn trị bịnh hoa mắt, chóng mặt vì thiếu máu. Mật trăn dùng làm thuốc trị phong. Mỡ trăn dùng để trị phỏng lửa.

Da trăn và rắn dùng để làm bóp, giày, dây nịt. Xương trăn và rắn kết hợp với xương cọp dùng để nấu cao hổ cốt. Ngày nay người ta nuôi các loại rắn độc để lấy nọc độc. Nọc rắn rất đắt tiền. Một gram nọc rắn chuông (ratlessnake) trị giá 40 Mỹ kim, 1 gram nọc rắn mang bành (cobra) trị giá 200 Mỹ kim. Nọc rắn độc có nhiều proteins làm đông máu và gây tử vong khi bị rắn cắn nếu không được chữa trị kịp thời. Nhưng làm giảm liều lượng proteins, nọc rắn được dùng làm thuốc trị cao huyết áp, đau tim, đau ngực, ung thư, bịnh Alzheimer, ngừa tai biến mạch máu não. Thuốc Eptifibatide làm từ nọc rắn chuông. Thuốc Tirofiban làm từ nọc rắn Echis carinatus, một loại rắn có vảy như răng lưỡi cưa (saw-scaled viper) được tìm thấy nhiều ở Ấn Độ và Phi Châu. Mật rắn dùng làm thuốc tiêu xổ, mát gan. Ở Việt Nam có Thuốc Dán Con Rắn, Tam Xà Đởm (mật của ba loại rắn).

Đối với nông dân sống trên châu thổ sông Cửu Long, rắn có công dụng diệt chuột. Rắn bắt chuột linh động hơn mèo vì có thể bò vào tận hang chuột.

Ngày xưa nhiều dân tộc trên thế giới xem rắn là Thần sinh sản. Người Ai Cập cổ thờ rắn và coi đó là dấu hiệu của sự sinh sôi, nẩy nở. Rắn là Nữ Thần Ejo, Thần ngự trên thung lũng sông Nile, "món quà" của dân tộc Ai Cập vì sông Nile mang nước ngọt và phù sa làm cho sa mạc khô khan trở thành những đồng lúa xanh tươi. Người Da Đỏ ở Hoa Kỳ thờ rắn. Các dân tộc bao quanh nước Do Thái ngày xưa thờ rắn. Trong Thánh Kinh rắn được xem là hiện thân của tội lỗi.  Đó là con vật bị trừng phạt phải trườn bằng bụng và chết bị dập nát đầu.

Trong huyền thoại Hy Lạp và La Mã rắn là biểu tượng của Thần trên Trái Đất. Thần Zeus nhận lấy hình hài của rắn để xuống trần gian thăm viếng loài người. Trong huyền thoại La Mã, Lacoon và các con của ông đều bị rắn cắn chết vì chống lại Thần Apollo. Hippocrates (460 - 377 trước Tây Lịch), ông Tổ ngành Tây Y, dùng dấu hiệu hai con rắn quấn vào cây roi của Asclepius làm dấu hiệu cho ngành y khoa.

Trong truyện Tàu có chuyện Liu Pang (Lưu Bang), người khai sáng ra nhà Hán (206 trước Tây Lịch - 220 sau Tây Lịch), chém Bạch Xà. Kin Yung (Kim Dung) đề cập đến vua Nam Đế uống huyết rắn. Vua Nam Đế ám chỉ người lãnh đạo của người Nam Chiếu (Nan Chao) ở Yunna (Vân Nam). Đó là tổ tiên của người Thái. Ông cũng nói đến Tây Độc uống huyết Bạch Long Xà. Bạch là màu trắng tương ứng với hành Kim và hướng Tây. Long Xà biều tượng cho sức mạnh, sự khôn ngoan của trí tuệ và sự tàn phá khủng khiếp. "Bạch Long Xà" nói lên sức mạnh và trí tuệ của người phương Tây.

Trong chuyện cổ tích của người Khmer có chuyện Thạch Sanh Chém Chằn.

Trong lịch sử Việt Nam có chuyện Rắn Thần Báo Oán biện minh cho triều Lê với bản án Lệ Chi Viên tru di tam tộc dành cho Nguyễn Trãi sau khi vua Lê Thái Tôn chết đột ngột bên cạnh Nguyễn Thị Lộ, người hầu trẻ, đẹp và giỏi thi phú của Nguyễn Trãi. Câu chuyện huyền hoặc nầy khỏa lấp ý muốn loại bỏ uy tín lẫn sự hiện hữu của Nguyễn Trãi chỉ vì bên ngoại ông có liên hệ huyết thống đến nhà Trần. Trần Nguyên Hãn chết vì một vụ đắm thuyền bí ẩn. Nguyễn Trãi sớm rũ áo từ quan vì người khai sáng nhà Hậu Lê (Lê Lợi) yêu cầu các bô lão gởi kiến nghị cho Minh triều nói rằng con cháu nhà Trần không còn ai nữa! Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn có công lao to lớn trong công cuộc kháng chiến chống quân Minh và có liên hệ huyết thống với nhà Trần.

Trong Ngụ Ngôn La Fontaine có bài La Vipère et la Sangue (Con Rắn và Con  Đỉa).

Cách bắt mồi và siết gãy xương sống con mồi của trăn và rắn giúp cho loài người học được vài thế võ từ Xà tộc.

Loài người không dành nhiều thiện cảm cho Xà tộc. Trong tiếng Anh chữ snake hay viper ngoài nghĩa là con rắn còn có nghĩa là người lừa lọc, phản bội. Chữ serpent (rắn) cũng có nghĩa là quỉ Satan, người lừa lọc, quanh co.

Người Ấn Độ có nhiều kinh nghiệm trong việc bắt rắn. Người Thái có kinh nghiệm bắt trăn. Người Ấn dùng ống sáo thổi để dụ rắn ra khỏi hang để bắt. Có phải chăng tiền nhân chúng ta không cho hút gió ban đêm vì sợ rắn vô nhà vì rắn nhầm tiếng hút gió với tiếng sáo?

Trong ngôn ngữ Việt Nam có nhiều cụm từ liên quan đến Rắn hay Xà với ý nghĩa xấu như: Khẩu Phật tâm xà; Cõng rắn về cắn gà nhà; Vẽ rắn thêm chân; Chằn ăn trăn quấn; Xà thiệt (lưỡi rắn - lời nói độc); Xà huyệt (nơi hiểm độc); Xà hành (bò sát đất như rắn bò).

Rắn rết bò vào,
Cóc nhái nhảy ra.

Rắn có chân rắn biết,
Ngọc ẩn đá ngọc hay.

Rắn già lột da,
Người già người tột đầu sàng.

Người Việt Nam cho rằng rắn là con vật độc hiểm hay báo thù. Vì vậy khi giết rắn, người ta phải đập đầu cho nó chết thực sự.

Người có mặt rắn là người thông minh nhưng hiểm độc. Người có tướng đi quanh co như rắn là người yểu tướng hay thường gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm. Người có mắt lim dim như mắt rắn rất hiểm độc.

Khi năm Thìn và Tỵ đến, người ta thường nhắc những câu thơ thời cuộc xem là sấm ký của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm từ thế kỷ XVI để lại:

Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh.
Can qua xứ xứ khởi đao binh,
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân, Dậu niên lai kiến thái bình.

Tôi không biết chữ Hán cũng không thấy được nguyên tác của Sấm Ký Trạng Trình nên không dám quả quyết Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là tác giả của những câu thơ trên hay không. Những câu thơ nầy tiên liệu thời gian bùng nổ và chấm dứt của đệ nhị thế chiến (1939 - 1945) hay là theo định kỳ cứ 12 năm đến năm Thìn, Tỵ thì có chiến chinh và đến năm Thân, Dậu thì có ánh sáng hòa bình? Và chiến chinh đó ở Việt Nam hay trên thế giới?

Trong Thiên Văn Học có sao Serpens hay Serpent. Chòm sao nầy gồm:

- Phần đầu gọi là Serpents Caput.
- Phần dưới gọi là Serpens Cauda và sao Ophiuschus ở giữa.

Trong Thực Vật Học có nhiều loại thảo mộc mang tên Rắn như:

- Xà thiệt thảo Oldenlandia corymbosa trị rắn cắn, hạ sốt, trị ho, suyễn.
- Dây sống rắn Rhaphidophora decursiva trị sốt rét.
- Cây sống rắn Albizzia myriophylla trị khát nước, ho.
- Bạch hoa xà Plumbago zeylanica và Xích hoa xà Plumbago rosea trị béo phì, thuốc trụy thai, trị phong hủi, di hượt tinh, cước khí.
- Hắc xà căn (black snake root) Sanicula canadense trị tê thấp, cảm, sốt rét, cao huyết áp, rắn cắn.
- Huệ xà Brodiaea corcinea.
- Xà căn Seneca Plygala senega trị rắn cắn, gây nôn, tẩy xổ.
- Xà qua tức qua làu hay thao ca Trichosanthes kirilowii có tính trụy thai, hạ cholesterol, kháng viêm, kháng nấm, ung thư, hạ sốt. Protein của qua làu có trichosanthin dùng làm thuốc trị bệnh AIDS.
- Xà mộc (snakewood) Brosimum guianensis là cây có gỗ cứng, chắc có giá trị trong ngành mộc. Những cây nầy có nhiều quinone C6 H4 O2 gây dị ứng, buồn nôn khi dùng đến.

Trong 12 con giáp Rắn đứng hàng thứ 6 sau Thìn (Rồng) và trước Ngọ (Ngựa). Năm Rắn được gọi là năm Tỵ. Năm Tỵ là năm Âm ( - ). Chúng ta có 5 năm Tỵ:

Năm     Hành Năm Dương Lịch
Ất Tỵ  Hỏa 1905, 1965, 2025
Đinh Tỵ  Thổ 1917, 1977, 2037
Kỷ Tỵ  Mộc 1929, 1989, 2049
Tân Tỵ  Kim 1941, 2001, 2061
Quý Tỵ Thủy 1953, 2013, 1073

Người tuổi Tỵ là người nhàn nhã, thích du lịch đó đây. Tuổi Quý Tỵ hợp với nữ phái. Nam hợp với Nhâm vì gia tăng dương tính (+), Nữ hợp với Quý vì gia tăng nữ tính hay âm tính (-).

Tuổi Tỵ hợp với: Dậu, Sửu và khắc với Dân, Thân, Hợi.
Trong số đề 40, con Rắn mang số 32 trước con Nhện (33) và sau con Tôm (31).

 

Những năm Tỵ quan trọng vào thế kỷ XX

1905: Chiến tranh Nga-Nhật; hiệp ước Nga-Nhật Portsmouth nhường phân nửa đảo Sakhalin phía Nam cho Nhật; Phong Trào Đông Du; Liên Minh Hồi Giáo.

1917: Hoa Kỳ tham chiến ở Âu Châu (Đệ Nhất Thế Chiến); Cách Mạng Tháng 10 Nga (theo lịch Julian); cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên; Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường được tự do ở Pháp khi Clémenceau (biệt danh Con Cọp Già) lên làm thủ tướng.

1929: Khủng hoảng kinh tế thế giới; sự hình thành ba đảng Cộng Sản ở Việt Nam; Đông Dương Cộng Sản Đảng; Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn, An Nam Cộng Sản Đảng trước khi đảng Cộng Sản Việt Nam chánh thức ra đời ở Hong Kong ngày 03-02-1930; Minh Ước Litvinov (tên nhà ngoại giao Liên-Sô); Vatican được công nhận là một quốc gia có chủ quyền riêng biệt; Chilie-Peru-Bolivia ký thỏa ước về vùng Tacna-Arica; Liên Sô đoạn giao với Trung Hoa Quốc Dân Đảng sau những cuộc đàn áp Cộng Sản đẫm máu vào năm 1927.

1941: Đức xua quân tấn công Liên Sô; Hiến Chương Đại Tây Dương; sự ra đời của Mặt Trận Việt Minh; Nhật tấn công Hoa Kỳ ở Pearl Harbor, Hawaii; Đức oanh tạc Cardiff, Wale; quân Anh-Úc chiếm Libya, quân Đức chiếm Benghazi; tướng Anh Michael Gambier-Parry bị bắt làm tù binh và được đưa về nhốt ở Ý. Năm 1943 ông vượt ngục và sống ẩn trong một tu viện cho đến khi Ý được quân Đồng Minh giải phóng năm 1944.

1953: Đồng bạc Việt Nam (piastre) bị phá giá; hiệp ước Panmunjom (Bàn Môn Điếm) chấm dứt chiến tranh Triều Tiên; Stalin chết; vụ các bác sĩ Do Thái bị buộc tội "hoạt động khủng bố" ở Liên Sô; Churchill chỉ trích thuyết Domino mà Foster Dulles trân quí; Beria, hung thần thời Stalin, bị bắt khi Krushchev thay Malenkov nắm quyền sau cái chết của nhà độc tài Stalin; Fidel Castro lập Phong Trào 26-07 chống nhà độc tài Batista; Liên Sô chuẩn bị làm bom khinh khí; Mossadegh bị đảo chánh và bị bắt ở Persia (Iran bây giờ); thế yếu của Pháp trên chiến trường Bắc Việt.

1965: Quân sĩ Hoa Kỳ đến Nam Việt Nam; đảo chánh ở Sài Gòn (Phạm Ngọc Thảo); cuộc diễn hành của người Da Đen từ Selma đến Montgomery; quân đội nắm chánh quyền ở miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa); chiến tranh Ấn Độ-Pakistan; sự ra đời của xứ Singapore.

1977: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc; tổng thống Carter ân xá cho 10.000 người tránh né nghĩa vụ quân sự trong chiến tranh Việt Nam; Deng Xiao-ping (Đặng Tiểu Bình) trở lại chánh quyền; Do Thái biểu tình chống Pháp vì thả Abu Daoud, người chịu trách nhiệm về việc thảm sát lực sĩ Do Thái ở Munich năm 1972; tổng thống Ai Cập Sadat viếng Do Thái; Khmer Đỏ đoạn giao với CHXHCNVN (31-12).

1989: Nhật hoàng Hirohito băng hà; sinh viên biểu tình ở Tian Anmen (Thiên An Môn); bức tường Berlin bị phá vỡ; chế độ Cộng Sản sụp đổ ở các nước  Đông Âu; Đức thống nhất; giáo chủ Khomeini của Iran ra lịnh giết Rushdie, tác giả Satanic Verses; Zimbabwe độc lập; Liên Sô hứa hủy kho võ khí hóa học; người tỵ nạn Việt Nam ở Hong Kong biểu tình chống lịnh cưỡng bách hồi hương.

2001: Taliban cho nổ sập bức tượng Phật lâu đời ở Afghanistan; biến cố 11-09 (khủng bố cướp phi cơ làm sập World Trade Center ở New York); chiến tranh Afghanistan lật đổ chánh quyền Taliban chứa chấp khủng bố Al Qaeda; Erik Weihenmayer, người Hoa Kỳ 32 tuổi ở Colorado, lên đỉnh núi Everest cao nhất thế giới mặc dù bị mù.

 

Nhân vật quan trọng sinh vào năm Tỵ

Những nhân vật quan trọng trên thế giới sinh vào năm Tỵ là:

- John F. Kennedy (1917 - 1963), tổng thống Hoa Kỳ. Ông đắc cử tổng thống năm 43 tuổi. Đó là vị tổng thống trẻ thứ nhì trong lịch sử Hoa Kỳ sau tổng thống Theodore Roosevelt (42 tuổi). Ông Kennedy nổi tiếng sau khi giải quyết cuộc khủng hoảng Cuba trước Khrushchev một cách ngoạn mục. Ông là người theo đạo Thiên Chúa đầu tiên được đắc cử tổng thống Hoa Kỳ. Ông bị ám sát chết năm 1963.

– Mao Zedong (Mao Trạch Đông, 1893 - 1976) không phải là người sáng lập đảng Cộng Sản Trung Hoa, nhưng ông là người đã sửa đổi chủ nghĩa Cộng Sản thành chủ nghĩa Mao. Năm 1931 ông thành lập Cộng Hòa Sô Viết Giang Tây (Jiangxi) năm ông 38 tuổi. Bị chánh phủ Chiang Kaishek (Tưởng Giới Thạch) đàn áp, ông phải mở cuộc Vạn Lý Trường Chinh (1934 - 1935) đi ngược về phía bắc. Sau đệ nhị thế chiến cuộc nội chiến Quốc Cộng tái diễn. Lần nầy quân Cộng Sản làm chủ tình hình. Năm 1949 Mao thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Năm 1959 ông mất chức chủ tịch nước vì thất bại trong Bước Tiến Nhảy Vọt khiến cho hàng chục triệu người chết vì thiếu lương thực sau khi cầm quyền với tư cách chủ tịch nước và chủ tịch đảng Cộng Sản Trung Hoa. Liu Shaoqi (Lưu Thiếu Kỳ) thay ông làm chủ tịch nước. Trong cuộc cách mạng văn hóa (1966 - 1976) Liu trở thành nạn nhân của Mao là vợ thứ ba của ông, Jiang Qing (Giang Thanh). Dưới thời cầm quyền của Mao: Trung Hoa lục địa can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) giúp Bắc Hàn, viện trợ cho Hồ Chí Minh trong chiến tranh kháng Pháp, có vai trò năng nổ trong hội nghị Geneva (1954) và hội nghị Bandung (1955), sản xuất bom nguyên tử, phóng vệ tinh nhân tạo lên không gian, v.v…

– Mustafa Kemal Ataturk (1881 - 1938) là người anh hùng thành lập chánh thể Cộng Hòa, canh tân xứ Thổ Nhĩ Kỳ bằng cách bãi bỏ nhiều cổ tục Hồi Giáo, La Tinh hóa chữ viết Thổ Nhĩ Kỳ, dùng dương lịch, giải phóng phụ nữ bằng cách cấm phụ nữ mang vải che mặt, không theo luật Sharia, cho phụ nữ đi học. Ông làm gương bằch cách cho con gái ông học lái phi cơ.

– Mohandas Karamchand Gandhi (1869 - 1948) là người dùng đường lối đấu tranh bất bạo động chống lại Anh giành độc lập cho Ấn Độ. Ông được người Ấn Độ xem như bậc Thánh với biệt danh đầy quí trọng "Mahatma". Khi Ấn Độ sắp được độc lập và phân vùng giữa người theo Ấn Giáo và Hồi Giáo thì ông bị Nathuram Godse, một người Ấn Giáo quá khích ám sát chết vì cho rằng ông quá mềm yếu trước người Hồi Giáo. Phong thái Thánh của ông thể hiện trước khi chết. Ông xin tha thứ cho người ám sát ông.

– Indira Gandhi (1917 - 1984) là nữ thủ tướng Ấn Độ, con gái của cố thủ tướng Nehru. Bà bị người hộ vệ người Sith ám sát chết vì bất mãn việc bà cho quân tiến vào Đền Vàng của người Sith.

Hermann Wihem Goering (1893 - 1946) là một trong những người thân tín của Hitler. Là một phi công dũng cảm, ông gia nhập đảng Quốc Xã và chỉ huy lực lượng bán quân sự Áo Nâu, Không Quân Đức Quốc Xã rồi Gestapo, bộ Ngoại Giao thời Hitler. Bị tòa án Nuremberg xử tử hình vì tộc ác chiến tranh, nhưng ông tự tử chết trước khi bị hành quyết.

– Martin Luther King (1929 - 1968) là mục sư Tin Lành, lãnh đạo Da Đen đấu tranh cho Dân Quyền. Năm 1963 ông tổ chức một cuộc tập họp qui tụ 200.000 người Da Đen dưới tượng đài kỷ niệm tổng thống Abraham Lincoln ở Washington. Ông nổi tiếng với Tôi có một ước mơ. Năm 1964 tiến sĩ Martin Luther King được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Ông chủ trương bất bạo động. Năm 1968 ông bị ám sát chết ở Memphis, Tennessee.

– Ferdinand Marcos (1917 - 1989) là tổng thống độc tài của Phi Luật Tân.  
Ông làm tổng thống từ năm 1965 đến 1986. Cái chết của lãnh tụ đối lập Benigno Aquino tại phi trường Manila năm 1985 vào ngày ông tự ý trở về nước một cách liều lĩnh sau khi sống lưu vong ở Hoa Kỳ làm cho uy tín Marcos suy giảm nặng nề . Trong cuộc bầu cử năm 1986 giữa ông và bà Aquino, góa phụ của Benigno Aquino, ông Marcos thua phiếu nhưng vẫn tuyên bố đắc cử. Dân chúng biểu tình khiến ông phải chạy sang Hawaii. Ông chết ở Hawaii năm 1989. Bà Marcos nổi tiếng với 3.000 đôi giày. Bà đã về Phi Luật Tân và được bầu làm dân biểu Quốc Hội. Đương kim tổng thống Phi Luật Tân bây giờ là con của nữ tổng thống Aquino.

– Anne Frank (1929 - 1945) là một thiếu nữ Do Thái sống ở Hòa Lan. Cô nổi tiếng với quyển hồi ký viết lén lút trong thời kỳ sống ẩn ở Hòa Lan, trốn lánh sự truy lùng và bắt bớ của quân Đức Quốc Xã. Nhật Ký Anne Frank được ấn hành lần đầu tiên vào năm 1947.

– Alexander Kerensky (1881 - 1970) là một nhà cách mạng Nga, đồng hương và là nạn nhân của Lenin. Cuộc Cách Mạng Tháng 2 (theo lịch Julian) vào năm 1917 đưa đến sự thoái vị của Nga hoàng Nicholas II. Kerensky là tổng trưởng bộ Chiến Tranh trong nội các của hoàng thân Lvov. Vài tháng sau ông thay thế Lvov để làm thủ tướng. Dù thuộc đảng Cách Mạng Xã Hội, nhưng ông thuộc khuynh hướng ôn hòa và chủ trương đứng theo phe Đồng Minh đánh nhau với Đức trong đệ nhất thế chiến. Tháng 10 (lịch Julian) năm 1917 (tức 07-11 theo lịch hiện hành) Lenin cầm đầu cuộc cách mạng vô sản lật đổ Kerensky. Ông chạy sang Pháp và sống lưu vong ở nước nầy đến khi mất vào năm 1970.

*

Hòa bình, tự do, no ấm luôn luôn là một ước mơ của nhân loại. Cầu xin cho mơ ước ấy trở thành hiện thực vào năm Quý Tỵ đầy thử thách nầy. Kinh tế thế giới chưa khởi sắc, giá thực phẩm lên cao. Có ít ra 800 triệu người trên thế giới rơi vào cảnh thiếu lương thực. Hàng loạt tranh chấp quốc tế chưa được giải quyết (Trung Đông, Đông Á, Đông Nam Á, v.v...). Va chạm văn hóa vẫn còn căng thẳng. Hy vọng rằng:

Thanh tịnh trong tâm
Hòa bình trên Trái Đất.

 

Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

 


Cái Đình - 2013