Thích Tuệ Sỹ
Lời Ban Biên Tập
Trong thời gian vừa qua một số biến động đang xảy đến
cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tại Việt Nam, đưa đến sự bắt giữ
một số tu sĩ cao cấp của giáo hội cùng những biện pháp của nhà cầm quyền nhằm
cản trở hoạt động của Giáo hội. Nếu muốn theo dõi những chuyển biến dồn dập
của tình hình, quí vị có thể vào những trang mạng chính như trang của Viện Tăng
Thống GHPGVNTN (www.vientangthong.net) hay phần của Phòng Thông Tin Phật giáo
Quốc tế trong trang www.queme.com để biết thêm tin tức chính xác và cập nhật.
Việc bắt giữ các hòa thượng cũng như những thống khổ mà Phật giáo cùng những
tôn giáo khác đang phải gánh chịu dưới chế độ hiện tại ở Việt Nam, nếu nhìn
trên bình diện văn hóa, chúng ta càng ý thức thêm tính cách nghiêm trọng của
vấn đề và những hậu quả lâu dài trong tương lai. Trong suốt chiều dài lịch sử
trong quá trình dựng nước và giữ nước, Phật giáo luôn đóng vai trò quan trọng
trong việc xây dựng tư tưởng, ý thức độc lập tự chủ cho dân tộc Việt. Qua nhiều
giai đoạn thăng trầm, vai trò đó vẫn tiếp tục và Phật giáo vẫn là chỗ dựa tinh
thần cho đại đa số nhân dân Việt Nam ở mọi tầng lớp. Trong xã hội Tây phương,
Phật học nói chung và Thiền Tông nói riêng, đã từ nhiều thập niên đóng góp vào
sinh hoạt triết học cũng như trong đời sống bình thường và đang tiếp tục phát
triển vai trò của mình.
Trong khi đó ở Việt Nam, nơi Phật giáo hiện diện đã hai ngàn năm, những hành
động nhằm chi phối các sinh hoạt tôn giáo dưới chế độ Cộng sản đã gây thiệt
hại trầm trọng về mặt tư tưởng, văn học Việt Nam cũng như về mặt xã hội, giáo
dục. Tất cả những thành tựu văn hóa trong chiều dài lịch sử với sự đóng góp
của Phật giáo, các giá trị trí tuệ và đạo đức không được thế hệ thừa kế biết
đến và trân trọng.
Cùng chia xẻ nỗi ưu tư để cùng có khái niệm rõ hơn về vị trí văn hóa của Phật
giáo, cũng như ý thức sự cấp thiết của tự do dân chủ và các giá trị nhân bản
(những điều này phải là những tiêu chuẩn và giá trị văn hóa phổ quát cho mọi
người, chớ không chỉ là quan điểm đấu tranh hay chiêu bài chính trị xuông),
kính mời quí vị đọc lại bài tham luận ‘Văn Minh Tiểu Phẩm’ của Thượng Tọa Thích
Tuệ Sỹ, đã được Thượng Tọa Thích Viên Lý đọc trong ngày Đại Hội Văn Hóa Phật
Giáo tại San Diego ngày 04/01/2003.
Cái Đình - 07/11/2003
Văn minh tiểu phẩm
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: ‘Nói dân tộc Việt
Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì đâu!’
Không phải vì tôi hoàn toàn không có gì mang ra làm bằng chứng để trả lời. Nhưng
tôi biết rõ những cái tôi mang ra, người hỏi ấy chẳng đọc được, và do vậy, cũng
chẳng hiểu được. Một thế hệ mất gốc. Đoạn tuyệt với quá khứ của cha ông.
Không phải chỉ một thế hệ, mà nhiều thế hệ.
Trước thời còn Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một giáo sư trường Đại học Văn Khoa
Sài gòn khi giảng bài cho sinh viên về văn học Việt Nam, ông nói: ‘Việt Nam
chỉ thực sự có văn học từ khi có chữ quốc ngữ’. Nghĩa là từ khi tiếng nói dân
tộc được ký hiệu bằng mẫu tự La-tinh. Văn chương chữ Hán, không phải là văn
học Việt Nam. Những sáng tác bằng chữ Hán không được kể vào văn học Việt Nam.
Các bản văn nổi tiếng, một thời đã từng làm nức lòng dân Việt, quyết đem xương
máu giữ gìn non sông; những bản văn ấy không được kể vào văn học Việt Nam: bài
thơ Nam Quốc của Lý Thường Kiệt, hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô Đại
Cáo của Nguyễn Trãi. Chúng không thuộc văn học Việt Nam. Tất nhiên cũng không
thuộc văn học Trung Quốc.
Phê bình của vị giáo sư này có cơ sở lý luận của nó, nên rất dễ dàng được các
sinh viên lúc bấy giờ chấp nhận. Nhưng vì sau đó không có bao nhiêu người phụ
họa quan điểm văn học này nên chúng ta cũng không cần phải phân tích.
Điều thú vị đáng nói ở đây là, sau ngày Tổng Thống Diệm sụp đổ, ông giáo sư
đến thăm Hòa Thượng Trí Quang. Lúc bấy giờ tôi đang là thị giả của Hòa Thượng
tại chùa Ấn Quang. Tôi ngạc nhiên vì sự viếng thăm này, nên tò mò hỏi Hòa Thượng.
Tôi cũng bạch Hòa Thượng biết rằng đó là vị giáo sư rất tích cực trong trường
Đại học Văn Khoa Sài Gòn, chủ trương bác bỏ sự tồn tại của nền văn học mệnh
danh là Phật Giáo Việt Nam. Hòa Thượng cho tôi biết, ông giáo sư đến thăm, và
thừa nhận đã sai lầm khi không công nhận Phật giáo có địa vị trong lịch sử văn
học Việt Nam, chỉ bởi lý do các Thiền sư toàn làm thơ bằng chữ Hán. Với tôi,
đây là sự đính chính mang ý nghĩa chính trị, chứ không thuần túy văn học.
Ông giáo sư văn chương Việt Nam này có bằng cấp Tiến sĩ Văn chương của nước
Đại Pháp; hoàn toàn không biết chữ Hán. Chữ Nôm do đó cũng không biết. Quan
điểm của ông một phần do hạn chế của ngôn ngữ, một phần nữa do tác động chính
trị bên ngoài. Chính hai yếu tố tác động này đã khiến cho nhiều trí thức Việt
Nam bị bứt khỏi gốc rễ truyền thống.
Nhiều người trong số họ không hiểu gì về tâm tình yêu nước Nguyễn Trãi, Nguyễn
Bỉnh Khiêm, hay Nguyễn Du; những ưu tư của kẻ sĩ mà chữ Hán nói ‘ưu thời mẫn
thế’ (lại cũng thành ngữ Hán!) Họ cũng không đủ tầm nhìn để đánh giá sự nghiệp
của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú; cũng không thể hiểu được một phần nhỏ Ngô Thời
Nhậm đã mơ ước những gì cho đất nước, cho dân tộc, khi quyết định đi theo phò
tá Nguyễn Huệ để bị Nho sĩ Bắc Hà bấy giờ chê trách là ‘lừa Thầy phản Bạn’.
Đơn giản, vì họ không có khả năng đi thẳng vào thơ văn của tiền nhân mà không
cần thông qua một trung gian nào. Những hiểu biết thông qua các bản dịch có
những giới hạn của nó. Như một dịch giả Phạn – Hán nổi tiếng ở Trung Hoa nhận
xét: ‘Đọc tác phẩm qua bản dịch chẳng khác nào ăn cơm do kẻ khác nhai hộ rồi
nhả ra. Chẳng những vô vị, mà đôi khi còn kinh tởm.’
Nếu gạt bỏ một mảng lớn hay toàn bộ thơ văn các tiền nhân ra ngoài lịch sử văn
họcViệt Nam, mà đại bộ phận được sáng tác bằng Hán văn, quả thật dân tộc Việt
Nam chỉ mới trưởng thành đây thôi, khi mà văn minh phương Tây được truyền sang
thông qua ký tự La-tinh được gọi là chữ quốc ngữ, theo ý đồ xâm thực bằng văn
hóa – tôn giáo – chính trị.
Cái gọi là chữ quốc ngữ, rất tiện lợi cho việc phổ cập đại chúng những tin tức
cần biết tức thời. Chỉ trong giới hạn nầy mà thôi. Văn chương, triết học, và
cả đến khoa học, ký tự La-tinh không nhất thiết là hữu hiệu hơn các loại ký
tự khác. Nhất là về phưong diện văn chương, nó là những ký hiệu, hay những biểu
tượng vô tri, chia cách con người ra khỏi thế giới tự nhiên mà nó đang sống,
tạo thành những hố ngăn cách rất khó vượt qua giữa các thế hệ. Có rất nhiều
người thuộc lòng truyện Kiều. Nhưng rất ít người có thể biết được xúc cảm khác
nhau khi đọc truyện Kiều qua ký tự La-tinh và qua bản chữ Nôm. Hai loại biểu
tượng của ngôn ngữ dẫn đến hai trạng thái và hai trình độ xúc cảm khác nhau.
Tất nhiên, nó cũng cho những tâm thức văn học và ý thức mỹ cảm khác nhau. Đây
là kinh nghiệm chủ quan của những người thưởng thức. Nó không phải là nhận thức
khách quan để có thể dễ dàng chia xẻ với những người không cùng chung bình diện
ngôn ngữ.
Về phương diện truyền đạt kiến thức khoa học, ký tự La-tinh có nhiều ưu điểm
của nó. Điều này thì không ai chối cãi. Các ký hiệu Hy-Lạp, La-tinh đã được
tiêu chuẩn hóa trên tầm mức quốc tế, do đó những nước chọn ký tự La-tinh để
chuyển tải ngôn ngữ dân tộc cảm thấy có nhiều lợi thế khi tiếp cận khoa học.
Song, đây không phải là loại hình ký tự duy nhất để tiếp cận khoa học. Rất nhiều
khái niệm cũng như nhiều định lý toán học được khám phá không phải do các tư
duy và các thuật toán được thực hiện thông qua ký tự La-tinh. Vả lại, với sự
phát triển của vi tính hiện đại, ký tự La-tinh không phải là duy nhất không
thể thay thế để tiếp cận khoa học. Nước Việt Nam chấp nhận ký tự La-tinh như
là công cụ chính thức để chuyển tải tư tưởng và kiến thức, và cũng thường rất
tự hào về loại hình ký tự phổ thông và hữu hiệu này giúp người Việt nhanh chóng
hội nhập nền văn minh khoa học kỹ thuật phương Tây, song lịch sử gần đây thôi
đã chứng tỏ không phải vì vậy mà Việt Nam tiến bộ hơn Nhật Bản, Đài Loan, Hàn
Quốc hay Thái Lan. Thế thì, sự tiện lợi hay không tiện lợi của loại hình ký
tự không phải là yếu tố quyết định cho tiến bộ văn minh. Ý nghĩa quyết định
nằm trong tình thế của biểu tượng truyền đạt của ngôn ngữ.
Chữ viết mà chức năng là ký hiệu truyền đạt, và là biểu tượng của tư duy, tự
bản chất, phản ảnh phong thái sinh tồn của một dân tộc trong ý thức cá biệt
của nó, đồng thời cũng phản ảnh lối quan hệ và ảnh hưởng hỗ tương giữa các dân
tộc. Không thể nói loại hình nào ưu việt hay tiện lợi hơn loại hình nào. Người
học chữ Hán cho đến một trình độ nào đó sẽ thấy rằng chữ ‘Uất’ gồm 29 nét không
phải là khó nhớ hơn chữ ‘Nhất’ một nét. Nói rằng chữ Nôm phức tạp cho nên không
tiện lợi để phổ biến cho bằng chữ La-tinh, điều này chỉ đúng cho những người
mà não trạng đã quen với tập tính lười biếng. Có điều, hình như đại bộ phận
trí thức của ta, từ mặc cảm tự ti, bị trị, của một dân tộc nhược tiểu, muốn
nhanh chóng rút ngắn con đường giải phóng và cách mạng, để bắt kịp nền văn minh
vật chất hào nhoáng từ phương Tây rọi sang. Từ đó phát sinh ngày càng lộ liễu
tập tính lười biếng, chỉ cần bắt chước những gì được coi là chuẩn mực của văn
minh, không cần đến tư duy sáng tạo, điều mà tiền nhân của chúng ta đã không
ngừng trong suốt chiều dài lịch sử để tự tồn, bên cạnh một thiên triều luôn
nghĩ cách thôn tính và đồng hóa. Do đó, người ta không nhìn thấy tính sáng tạo
của dân tộc trong quá trình hình thành chữ Nôm, trong cách cấu tạo tự hình trong
đó hàm tàng những cái nhìn về nhân sinh và thế giới. Chữ Nôm bị kết tội là làm
chậm bước phát triển của dân tộc, cho nên cần phải thay thế bằng chữ viết khác.
Liên hệ mật thiết với quá trình hình thành chữ Nôm, là lịch sử phát triển của
Phật giáo Việt Nam. Phật giáo ở đây cũng bị kết án tương tự như chữ Nôm. Dầu
sao, chữ Nôm cũng chỉ là ký hiệu chuyển tải, truyền đạt, nên sự thay thế không
gây thành công án gì đáng nói. Phật giáo là tín ngưỡng của đại bộ phận nhân
dân, là tầng dày cho mọi sinh hoạt mang ý nghĩa thiết cốt tồn vong của cả dân
tộc. Cho nên, nếu cần loại bỏ Phật giáo như loại bỏ một thứ chướng ngại cho
sự nghiệp cách maạng và giải phóng dân tộc theo chuẩn mực chính trị – xã hội
– tôn giáo phương Tây, Mác-xít hay phi-Mác-xít, không thể không gây chấn động
xã hội mà ở đây người ta có thể gọi là Liệu Pháp Sốc. Cái Liệu Pháp Sốc này
đã gây những thương tổn đáng kể cho Phật giáo Việt Nam. Mười năm dưới chế độ
Cộng hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ở miền Nam, hai mươi năm dưới chế độ chuyên
chính vô sản ở miền Bắc, rồi trên hai mươi lăm năm dưới chế độ toàn trị trên
một đất nước thống nhất, văn hóa Phật giáo Việt Nam chỉ đang tồn tại như một
bóng mờ thấp thoáng bên dòng sông không định hướng của lịch sử Việt Nam.
Phải thú nhận rằng, cho đến bây giờ mà nghĩ lại tôi vẫn tự thấy xấu hổ, một
thời tuy đã học hết Trung học mà vẫn không biết Ngô Thời Nhiệm là ai trong dòng
lịch sử tư tưởng của dân tộc, ngoại trừ chỉ biết rằng ông là nhà Nho thức thời
bỏ Lê chạy theo Nguyễn Huệ, để rồi bị Đặng Trần Thường đánh chết trước Văn Miếu.
Lý do có thể đơn giản, vì con đường mang tên Ngô Thời Nhiệm không lịch sự và
trang trọng như con đường mang tên Alexandre de Rhode. Còn nhiều thứ phải xấu
hổ như thế nữa cho một học sinh thuộc thế hệ của tôi.
Phật giáo ở miền Nam, tuy bị khống chế và nhiều khi còn bị khinh miệt dưới triều
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, dù sao cũng còn may mắn, cũng nên gọi là may mắn,
có được mười năm để tự chấn hưng và phát triển sau khi chế độ Duy Linh Nhân
Vị của Tổng Thống Diệm sụp đổ. Mười năm đó chỉ vừa mới đủ để Phật giáo Việt
Nam tự xác định tầm vóc và vị trí của mình trong lịch sử văn hóa – chính trị
– xã hội của dân tộc. Nó chưa đủ thời gian để cống hiến cho dân tộc nhũng bông
hoa rực rỡ như trong quá khứ. Trong khi đó, Phật giáo Việt Nam tại miền Bắc
chỉ tồn tại trên hình thức như một tổ chức chính trị. Nói một cách tượng hình,
nó chỉ hiện diện như một cái cúc áo cài trên bộ đại cán mỗi khi các lãnh tụ
xuất hiện trước cộng đồng thế giới mà không bị ‘hở lưng’. Để xác nhận cho miền
Nam biết Phật giáo không còn tồn tại như một thực tại quần chúng, Ngài Chủ tịch
Hội Phật giáo Việt Nam xuất hiện trên lễ đài chiến thắng sau ngày 30 tháng tư
với chiếc áo sơ mi cụt tay của một cán bộ Mặt Trận, chứ không xuất hiện như
một vị chân tu khả kính mà Phật tử Việt Nam trong cả hai miền Nam Bắc từ lâu
đã ngưỡng mộ. Với trí thức miền Nam, người ta biết rằng chiến lược văn hóa xã
hội chủ nghĩa thay thế văn hóa dân tộc được đề xướng bởi Trường Chinh đã thành
công, ít nhất về mặt hình thức.
Năm 1945, khi vừa tiếp thu Hà Nội, Trường Chinh, lúc bấy giờ là Bí thư thứ nhất
của đảng Lao Động Việt Nam mà Chủ tịch là Hồ Chí Minh, đã công bố cho giới trí
thức Hà Nội một bản đề cương văn hóa, trong đó ông Bí thư nói rõ: phong trào
chấn hưng Phật giáo Việt Nam hiện tại chỉ là sách lược ru ngủ nhân dân của thực
dân Pháp. Bằng tuyên bố này, số phận của Phật giáo Việt Nam đã được đưa ra trước
tòa sơ thẩm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nhưng khi được đưa ra chung thẩm
trưóc tòa án nhân dân và lịch sử, tình tiết trở nên phức tạp.
Phức tạp trước hết là từ quan điểm của Các-Mác về đồng minh giữa giai cấp vô
sản và nông dân. Sau khi phân tích những nguyên nhân khiến công xã Paris thất
bại, Mác cảnh báo về những kẻ thù của giai cấp vô sản. Mác vạch rõ: trong đấu
tranh vũ trang để giành chính quyền từ tay tư sản, nông dân là đồng minh thiết
yếu của giai cấp vô sản. Nhưng khi đã giành được chính quyền, người vô sản vẫn
phải giữ vững tay súng để tiến hành cách mạng. Vì kẻ thù của vô sản bấy giờ
chính là nông dân.
Khi cách mạng vô sản Nga thành công, vì lực lượng vô sản ở đây chưa đủ để tiến
hành cách mạng theo con đường Mác đã vạch, Lê Nin đề ra chính sách liên minh
công nông, với ngọn cờ Búa Liềm như là biểu tượng trong giai đoạn quá độ. Qua
các tác phẩm văn học trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở Nga, trong quá
trình tập thể hóa nông nghiệp, các nhà văn Xô-viết đã cho thấy cái não trạng,
tập tính phản động của tuyệt đại đa số nông dân.
Kinh nghiệm xây dựng chính quyền vô sản từ Liên Xô đã cho Việt Nam những bài
học thiết thực. Muốn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trước hết phải có
con người xã hội chủ nghĩa như Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở. Điều này
có nghĩa là phải thay đổi não trạng của nông dân Việt Nam, đang là chủ lực,
không chỉ trên mặt trận vũ trang để giữ vững chính quyền vô sản non yếu và tiến
hành chiến tranh giải phóng miền Nam, mà nông dân còn là lực lượng lao động
chính để xây dựng hạ tầng cơ sở của chủ nghĩa xã hội.
Cần phải thay đổi não trạng của nông dân mới mong lấy đó làm chỗ dựa cho cách
mạng vô sản. Trong khi đó, đại bộ phận nông dân Việt Nam đều mang tín ngưỡng
Phật giáo. Tuy tín ngưỡng đó không sâu sắc, nhưng nó đã trở thành tập tính dân
tộc không thể gột rửa dễ dàng bằng vài ba lý luận mập mờ của chủ nghĩa duy vật
chống tôn giáo. Do đó Phật giáo là một trở lực đáng kể. Nói cách khác, muốn
thay đổi não trạng của đông đảo nông dân, để nhanh chóng thành công trong bước
đi lên của giai đoạn quá độ xã hội chủ nghĩa, trước hết phải triệt tiêu Phật
giáo. Lịch sử cần phải viết lại dưới ánh sáng duy vật sử quan. Lập trường phê
phán của các sử gia bấy giờ là vẽ lên bức tranh ảm đạm của quá khứ, trong đó
bọn tăng lữ cấu kết vói bọn quý tộc để bóc lột nhân dân.
Sau những năm tám mươi, sau khi hằng loạt biện pháp khống chế và triệt tiêu,
với một cơ sở có tính chất gần như pháp chế xã hội chủ nghĩa là chế độ ‘Nhất
tăng nhất tự’ để cưỡng bức Tăng Ni trẻ hoàn tục, đã vấp phải phản ứng quyết
liệt mà có khi lên đến cao điểm bằng những vụ tự thiêu, tự tử, và những bản
án tử hình, đảng Cộng Sản đã xét lại chính sách tôn giáo. Tổng Bí thư bấy giờ
là Nguyễn Văn Linh tuyên bố: ‘Phật giáo là chỗ dựa cho người cộng sản Việt Nam
làm cách mạng.’ Đây không phải là sách lược mới mẻ. Nó chỉ áp dụng thủ đoạn
mà Lê Nin đã vạch ra cho chínhh sách tôn giáo của Liên Xô. Lê Nin nói: ‘Đảng
phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng.’
Sự xuất hiện sau năm 1982 của một tổ chức được mệnh danh là Giáo Hội, mà thực
chất là một tổ chức chính trị nằm trong Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam do cán bộ
Cộng Sản lãnh đạo, cho thấy trước sau như một, đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận
dụng các biện pháp kinh điển xã hội chủ nghĩa được thi hành tại Liên Xô cũng
như tại Trung Quốc và trong tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác. Không có
cái gì xứng đáng để nói là các chính sách kinh điển ấy được áp dụng một cách
sáng tạo tùy theo bối cảnh lịch sử của xã hội Việt Nam.
Sự sao chép một cách mù quáng các sách lược xã hội chủ nghĩa kinh điển không
chỉ gây chấn thương trầm trọng cho Phật giáo Việt Nam, mà trên đại thể nó còn
gây rất nhiều tổn hại khó khôi phục cho kho tàng truyền thống văn học và tư
tưởng Việt Nam.
Cho đến hiện tại, gần ba mươi năm hoà bình, Phật giáo Việt Nam không có những
sinh hoạt văn hóa giáo dục nào đáng kể. Những gì mà Phật giáo Việt Nam tại miền
Nam đã làm được trong suốt thời kỳ chiến tranh và chia cắt, nay chỉ còn là những
hoài niệm trong trí nhớ với nhiều tiếc nuối của thế hệ lớn tuổi. Tầng lớp trẻ
hầu như không biết gì nhiều về quá khứ đó. Chỉ mới trong khoảng chưa đầy ba
mươi năm thôi, mà một quá khứ đáng tự hào của Phật giáo Việt Nam trong lòng
dân tộc đang bị quên lãng, và đang có nguy cơ biến mất. Với ý nghĩa biến mất,
chúng ta muốn nói đến sự biến chất. Bởi vì, dưới phương châm ‘đạo pháp, dân
tộc và chủ nghĩa xã hội’, Phật giáo Việt Nam sẽ không tồn tại và trưởng thành
như đã từng trong quá khứ. Ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội là vô thần. Phật giáo
Việt Nam muốn tồn tại phải biến chất để thích ứng, phải tiến lên thành một tôn
giáo vô thần theo định nghĩa của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một thứ Phật
giáo theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn quái dị hơn một nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhiều phê bình gia kinh tế nhận xét.
Đây không phải là điều nói suông trên lý thuyết. Nhiều cuộc hội thảo với các
chuyên đề Thiền Trúc Lâm với tư tưởng Hồ Chí Minh, hay Thiền Trúc Lâm với chính
sách đổi mới của đảng Cộng Sản Việt Nam, được tổ chức bởi các Viện nghiên cứu
lịch sử, văn học, tư tưởng do các đảng viên công tác văn hóa chủ trì. Trong
các hội nghị đó, mặc dù chuyên đề Phật giáo, nhưng không có Tăng sĩ Phật giáo
tham dự, hoặc chỉ tham dự như khách mời. Điều này có thể có hai lý do. Một:
học thức của Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam hiện tại quá kém, không đủ trình độ
tham dự. Hoặc, đây là hội nghị của cán bộ đảng làm công tác văn hóa, không liên
quan gì đến Phật giáo. Ý đồ của đảng là sau khi cải tạo thành công Phật giáo
Việt Nam, nó sẽ là nhân tố trong các nhân tố mang tính dân tộc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chừng đó, Việt Nam sẽ là mô hình xã hội chủ nghĩa thích hợp
cho các nước nhược tiểu và chậm tiến. Không phải không có cơ sở khi người Anh
Cả Trung Cộng chỉ trích Việt Nam xã hội chủ nghĩa có tham vọng tiểu bá. Mặc
dù tham vọng đó thực chất chỉ nằm trong lý thuyết, là chuyên đề cho các cán
bộ văn hóa nghiên cứu để có việc làm.
Một thời, khi hai tập sách ‘Thơ Văn Lý Trần’ có tầm cỡ được công bố như là công
trình nghiên cứu có thành tích đáng tuyên dương, chủ nghĩa xã hội và Phật giáo
Việt Nam hình như đang có cơ sở để nhích lại gần nhau và hợp nhất trong lòng
dân tộc, và dưới đài quang vinh của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặc dù cả hai ý thức
hệ được xem là đang tiếp cận nhau, nhưng trong đối thoại thì giả thiết này,
người nói và người nghe đều là Mác-xít cả.
Sự gán ghép đạo pháp vào chủ nghĩa xã hội chẳng khác nào buộc con chó nhà và
chó sói vào một sợi dây, để khi có sự biến, một con tìm cách chui xuống gầm
giường, một con cố gắng phóng mình trở lại rừng. Hai con thú giằng co nhau bởi
một sợi dây oan nghiệt.
Chỉ trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ mà những thành tựu quá khứ của một nền văn
hóa dân tộc hầu như không được thế hệ thừa kế biết đến và trân trọng, thế thì
chúng ta tìm dấu vết của hai nghìn năm lịch sử về trước bằng cách nào? Cho nên,
khi nghe một Tăng sĩ trẻ, hình như đã tốt nghiệp Đại học, hỏi tôi một cách chân
tình: ‘Thưa Thầy, Phật giáo Việt Nam là gì?’, tôi cảm giác đã có sự cách biệt
giữa hai thế hệ, phân ly bằng một bức tường ý thức hệ.
Phải chăng, quả thật rằng, qua suốt trên dưới hai nghìn năm hiện diện, Phật
giáo Việt Nam không có thành tựu gì đáng được nhắc đến?
Có đấy, vả lại có rất nhiều nữa chứ không phải chỉ dăm ba trang sách nhặt lượm
đâu đó.
Ở đây, một câu hỏi khác cũng cần được nêu lên: ‘Tại sao một đất nước như Campuchea,
so với Việt Nam thì quả là nhỏ bé, lại có thể sở hữu một công trình vĩ đại như
Angkor Vat, trong khi đó Việt Nam xem ra không có gì tương tự để so sánh và
thẩm định? Chùa Một Cột được làm biểu tượng cho tinh thần Phật giáo Việt Nam,
lại được nhiều người cho rằng nó chỉ lớn hơn chuồng chim bồ câu một chút?’
Chúng ta đang nói đến sự cần thiết của một phương pháp luận chuyên biệt của
sử học để thẩm định giá trị của những gì tiền nhân đã tựu thành, những thẩm
định không mô phỏng một cách hời hợt theo bậc thang giá trị biểu kiến của nền
văn minh vật chất, và khoa học kỹ thuật, của phương Tây hiện đại.
Phương pháp luận được nhiều nhà viết sử Phật giáo Việt Nam đây sử dụng đại để
mang tính chủ quan. Sử gia không có nhiều dữ kiện lịch sử trong tay, nên phải
dựa trên trí thông minh của mình suy luận. Dữ kiện đã ít, lại mối quan hệ giữa
chúng cũng rất khó xác lập. Chẳng hạn, khi một sử gia muốn vẽ lại sinh hoạt
Thiền môn thời Trần; ông hầu như hoàn toàn không có dữ kiện, hoặc có mà rất
ít, và cũng không tìm ra đầu mối quan hệ để nối kết chúng lại với nhau.
Cho nên, ông căn cứ vào sự quan sát sinh hoạt thường nhật của một ngôi chùa cổ nào đó ở Huế, rồi thay đổi niên đại và hoàn cảnh, tự nhiên ta có toàn cảnh sinh hoạt Thiền môn cách đây gần một nghìn năm. Trong trường hợp này, sử gia không chỉ cần bác lâm thư tịch, mà còn phải có thêm óc tưởng tượng của một nhà văn, một người viết tiểu thuyết.
Thế nhưng, cũng có trường hợp sử gia khi phát hiện cấu trúc bất thường của một
vài từ ngữ từ một bản Hán dịch, đã có thể viết lại chi tiết đáng khâm phục về
một giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam, tưởng chừng như vĩnh viễn là khu vực
bỏ trống. Đó là giai đoạn trước và sau kỷ nguyên Cơ Đốc. Không chỉ là một giai
đoạn của Phật giáo Việt Nam, mà từ đó còn có thể phác thảo ra những quan hệ,
những trao đổi văn hóa, tư tưởng tôn giáo, cũng như các hoạt động chính trị
và kinh tế giữa các dân tộc trong một khu vực rộng lớn hơn.
Phương pháp sử học như vậy chỉ có thể thành công trong một mức độ nào đó, bởi
những sử gia có trí năng sắc bén, kho kiến thức thông bác, và cũng cần một tính
năng nhạy cảm để dễ dàng xúc cảm với những thăng trầm của đất nước và dân tộc.
Phương pháp sử học như vậy hoàn toàn mang tính chủ quan, mặc dù chưa có một
sử gia Đông Tây kim cổ nào đáng được đánh giá là hoàn toàn khách quan.
Thực sự, qua danh sách các sáng tác của Phật giáo Việt Nam mà Thầy Lê Mạnh Thát
đã sưu tập được trong khoảng mấy chục năm qua chúng ta thấy số lượng không phải
ít. Từ những cái đang có, suy diễn về những cái đã mất, văn hiến Phật giáo Việt
Nam không phải nghèo hèn như nhiều trí thức vong bản nhận xét.
Cũng bằng một phương pháp luận như vừa nêu, người ta tất phải thấy rõ ý đồ của
Cao Biền, trong chính sách lâu dài tiêu diệt và đồng hóa được liên tiếp thi
hành qua nhiều triều đại của Nhà nước Trung Hoa phong kiến. Rồi đối chiếu những
gì Cao Biền đã làm như được ghi chép trong chính sử Việt Nam và Trung Quốc,
với phản ứng của các Thiền sư cố khôi phục lại những mất mát cho dân tộc và
đất nước mà Cao Biền đã thực hiện, như được ghi chép trong Thiền Uyển Tập Anh,
qua đối chiếu này, chúng ta có thể thấy mức độ tàn phá các di sản tinh thần
cũng như vật chất trong những cuộc chiến tranh xâm lược từ phương Bắc.
Còn một câu hỏi khác mà chúng ta chưa thể trả lời: ‘Trong lịch sử quá khứ, trình
độ phát triển cuả Cao Miên và của Nam Dương không cao hơn Việt Nam, nhưng Angkor
Vat và Baraboudur là những công trình quy mô, mà khi đối chiếu khiến cho Việt
Nam trở thành nhược tiểu so với Trung Quốc, và tụt hậu so với các nước láng
giềng.’ Thực tế, phải trên một cơ sở nhân bản mới có thể thẩm định giá trị trình
độ phát triển của Việt Nam hay các trường hợp tương tự. Không thể hoàn toàn
chỉ dựa vào các tiêu chuẩn thành tựu vật chất.
Chúng ta nói giá trị nhân bản, là muốn nói đến mối quan hệ xã hội của con người.
Trong đó, nhân phẩm của người khác được tôn trọng, và hạnh phúc hay an nguy
của người khác được bảo đảm. Tất cả mối quan hệ này được nâng lên hàng văn hiến,
nghĩa là được tất cả thành viên của cộng đồng thừa nhận như là khế ước xã hội
mà mỗi thành viên có nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là sự phát triển của khung
hình lý tính phổ quát, luôn luôn yêu cầu sự tương thích với tình cảm cá biệt
đặc thù.
Thành ngữ Việt Nam có câu ‘phép vua thua lệ làng’, nó không có nghĩa mỗi làng
xã là một lãnh địa tự quản của dân xã. Ý nghĩa của nó là nêu lên sự điều hòa
mâu thuẫn giữa lý tính phổ quát và tình cảm đặc thù, không vì quyền lợi của
cộng đồng mà nhân phẩm của cá nhân bị tước đoạt, cũng không vì quyền lợi của
cá nhân mà sự an nguy của cộng đồng bị đe dọa. Do đó, không phải ỷ mình là vua,
là chủ nhân của đất nước, mà quân chủ có quyền sống xa hoa vượt trên khả năng
mà thần dân có thể cống hiến.
Người Trung Hoa có thể tự hào bởi Vạn Lý Trường Thành đồ sộ, bởi những cung
điện lộng lẫy của các triều đại xa hoa. Nhưng sử gia cũng biết rõ bao nhiêu
xương máu của nhân dân đã đổ vào đó. Sự tồn tại của chúng là chứng tích cho
sự tàn ác của con người. Vẻ huy hoàng của thành tựu vật chất, trong ý nghĩa
đó, có tỷ lệ nghịch với các giá trị nhân bản.
Tuy nhiên, cho đến lịch sử hiện đại, các giá trị nhân bản chưa được nâng lên
hàng phổ quát tính. Mỗi nền văn minh mang bản chất thế tục hay tôn giáo, đều
có nhận thức riêng về phẩm tính của con người. Chính từ những nhận thức cá biệt
này khiến cho, khi thế giới được mở rộng, biên giới vật lý giữa các quốc gia
càng lúc càng mờ nhạt, các dân tộc và chủng tộc khác nhau có nhiều cơ hội để
giao tiếp hơn, thì những xung đột đẫm máu càng lúc càng khốc liệt, vẽ nên những
thảm cảnh cực kỳ tàn bạo.
Chỉ khi nào lịch sử nhân loại được viết lại, trên cơ sở nhận thức về những giá
trị nhân bản phổ quát, chừng ấy chúng ta mới hy vọng có trả lời xác đáng cho
câu hỏi: rốt lại cái gọi là ‘Bốn nghìn năm văn hiến của Việt Nam là những gì?’
Đồng thời, câu trả lời đó cũng xác định luôn cả vị trí của đạo Phật trong lịch
sử văn hiến của Việt Nam.
Cái Đình - 2003