Phạm Ðình Lân
Gặp nhau vì ‘lý tưởng’ mơ hồ
Có những quốc gia xa nhau, không cùng chủng tộc, tôn giáo, lịch sử và thể chế chánh trị lại có những tương đồng kỳ lạ. Dưới đây chúng tôi cố gắng nêu bật vài điểm tương đồng kỳ lạ giữa Việt Nam và Syria.
1. Vị trí địa lý của Việt Nam và Syria.
Việt Nam nằm ở Ðông Nam Á, phía đông giáp với Thái Bình Dương; phía tây nam giáp với vịnh Thái Lan, một phần của Ấn Ðộ Dương. Việt Nam rộng 330.000km2, với khí hậu nhiệt đới: nóng và ẩm.
Syria nằm ở cực Tây Á. Phía tây giáp với Ðịa Trung Hải. Syria rộng 180.000km2 (chỉ bằng 55,5% diện tích Việt Nam). Khí hậu Syria là khí hậu Ðịa Trung Hải. Tiến vào nội địa về phía đông khí hậu càng nóng và khô.
Việt Nam Và Syria đều là hai quốc gia cổ xưa. Thánh Kinh đề cập nhiều đến vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu, sông Tigris và Euphrates (Syria chỉ có sông Euphrates chảy ngang qua), thành phố Antioch, Damascus, Thánh Paul (st. Paul) tức Saul, người trước kia nổi tiếng giết đạo Christ nhưng sau đó trở thành người say mê giảng đạo Christ sau khi chứng kiến phép lạ đến với ông. Saul té ngựa, bị mù mắt và nghe tiếng gọi trên không trung chỉ ông đến Damascus. Ông được sáng mắt và bắt đầu phục vụ cho đấng Christ. Làng Malula cách Damascus 58km về phía đông nam là nơi có nhiều tu viện và giáo đường Thiên Chúa Giáo và Chính Thống Giáo Hy Lạp lâu đời ở Syria. Dân trong làng nói tiếng Aramaic, một tiếng nói cổ xưa từ thời Chúa Jesus. Syria nằm ở Trung Ðông (Tây Á), nơi sớm xuất phát ba tôn giáo độc thàn (monotheism) trong thời kỳ mông muội của nhân loại. Ðó là Do Thái Giáo (Judaism), đạo Thiên Chúa (Christianism) và Hồi Giáo (Islam-Mahometism). Syria tiếp cận với văn minh Ai Cập, Ba Tư, Hy Lạp, La Mã và văn hóa du mục Trung Á. Trước khi tiếp nhận Tam Giáo người Việt cổ thờ Thần Núi, Thần Sông và gọi Cọp, Voi là Ông Cọp, Ông Voi, Rắn to lớn là Rắn Ông, Rắn Bà, loài Bướm to lớn là Bướm Ông, Bướm Bà v.v…
Syria là đầu cầu trên lục địa Á-Âu. Ðó là địa bàn Thánh Chiến giữa tín đồ Thiên Chúa Giáo Âu Châu với tín đồ Hồi Giáo trong vùng vào thời Trung Cổ. Ðó là điểm phát xuất phía Tây của đường tơ lụa tiến về Trung Hoa từ bờ đông Ðịa Trung Hải.
Việt Nam là giao điểm của hai văn hóa lớn ở Á Châu: văn hóa Ấn Ðộ và văn hóa Trung Hoa. Thủy Chân Lạp (Nam Bộ) và Chiêm Thành (miền Trung từ Quảng Bình xuống Bình Thuận) chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Ðộ. Kiến trúc Angkor Wat, Angkor Thom và các tháp Chàm chịu ảnh hưởng của Ấn Giáo (Hinduism). Sau khi người Khmer theo Phật Giáo Tiểu Thừa. Từ thế kỷ XIII về sau đa số người Chàm theo đạo Hồi. Hiện nay vẫn còn nhiều người Chàm ở Việt Nam còn theo Ấn Giáo. Trước khi đến miền duyên hải Trung Hoa đê truyền giảng đạo Phật các sư tăng Ấn Ðộ phải đi ngang qua Việt Nam. Trong đệ nhị thế chiến Nhật dùng Việt Nam để tiến chiếm các nước Ðông Nam Á lục địa.
Việt Nam theo Tam Giáo (Khổng, Phật, Lão) hoàn toàn do ảnh hưởng của người Trung Hoa. Các quốc gia láng giềng lân cận với Việt Nam theo các tôn giáo khác nhau: Lào, Cambodia theo Phật Giáo Tiểu Thừa; Mã Lai theo Hồi Giáo; Indonesia theo Hồi Giáo; Phi Luật Tân theo Thiên Chúa Giáo với 10% dân số theo Hồi Giáo (đa số là cư dân trên đảo Mindanao).
Syria là một quốc gia Hồi Giáo được bao quanh bởi các quốc gia Hồi Giáo láng giềng. Việt Nam là thuộc địa của Pháp vào hậu bán thế kỷ XIX. Syria đặt dưới sự kiểm soát của đế quốc Ottoman. Sau đệ nhất thế chiến Hội Quốc Liên trao cho Pháp quyền ủy trị trên vùng đất này.
Năm 1945 Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng Pháp trở lại tái chiếm thuộc địa. Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12-1945. Cùng năm nầy Pháp trả độc lập cho Syria.
2. Hồ Chí Minh và Hafez Assad được đào luyện ở Liên Sô
Hai ông Hồ Chí Minh và Hafez Assad, thân phụ của đương kim tổng thống Syria Bashar Assad, đều được huấn luyện ở Liên Sô.
Hồ Chí Minh là đảng viên Cộng Sản Pháp được huấn luyện chánh trị để phục vụ Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản do Liên Sô chỉ đạo vào năm 1924 và 1934.
Hafez Assad là một sĩ quan Không Quân chớ không phải là đảng viên Cộng Sản. Ông được huấn luyện với tư cách một sĩ quan Không Quân dự khóa huấn luyện lái phi cơ MIG 17 của Liên Sô trong 10 tháng vào năm 1957.
Ðảng Baath của Syria là độc đảng cầm quyền ở Syria như đảng Cộng Sản. Ðảng Cộng Sản đả phá tôn giáo và là một đảng độc tài, tôn thờ cá nhân lãnh tụ. Ðảng Baath cũng tương tự như thế nhưng không đụng chạm đến Hồi Giáo.
Ðảng Baath là đảng độc tài phần lớn do các quân nhân nắm giữ. Ðảng Cộng Sản do các ủy viên chánh trị điều khiển. Ðảng Cộng Sản và đảng Baath đều là đảng cán bộ có mẫu số chung như sau: độc đảng, độc tài, tôn sùng cá nhân lãnh tụ. Chế độ độc tài Hafez Assad dẫn đến chế độ cha truyền con nối như Bắc Hàn. Chế độ cha truyền con nối ở Syria có chút màu sắc dân chủ dù rất nhật: Bashar Assad là tổng thống do dân bầu khác với các lãnh tụ Bắc Hàn nối ngôi cha theo sự chỉ định và thuận ý của lãnh tụ họ Kim.
Liên Sô không xem trọng Hồ Chí Minh như Hafez Assad vì Hồ Chí Minh là cán bộ của họ, do họ đào luyện và tài trợ. Họ cần vuốt ve mơn trớn Nasser và Hafez Assad nhiều hơn do vị trí địa lý của các nước Ai Cập và Syria gần các giếng dầu ở Trung Ðông, đặc biệt là bán đảo Á Rập và các tiểu vương quốc ven vùng Vịnh Persian. Các nước nầy tương đối gần với Liên Sô hơn là Việt Nam nơi chịu ảnh hưởng sâu đậm của Trung Hoa vì lý do địa lý, chủng tộc (da vàng), tôn giáo (Khổng, Lão, Phật) và văn hóa (sinh hoạt nông nghiệp, kiến trúc thảo mộc, thức ăn nhiều thực vật và cá hơn là bơ, sữa, trứng và thịt v.v…) Sự phát huy ảnh hưởng ở Ai Cập và Syria sẽ giúp cho Liên Sô có lối thoát ra biển cả nối liền Hắc Hải – Ðịa Trung Hải – kinh đào Suez – Hồng Hải – Ấn Ðộ Dương. Hướng về phía tây Ðịa Trung Hải là lối thoát ra Ðại Tây Dương đi ngang qua eo Gipaltar do Anh kiểm soát. Stalin xem ông Hồ Chí Minh như một ‘tử tội’ trong thời kỳ Ðại Thanh Trừng vào những năm đầu của thập niên 1930. Ông không ngó ngàng gì đến Hồ Chí Minh sau khi ông Hồ cướp chánh quyền ở Hà Nội năm 1945. Liên Sô không có đại diện ở Hà Nội khi Hồ Chí Minh khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Stalin không nhìn nhận và không giúp đỡ gì cho cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1946 đến 1950. Ông chỉ nhìn nhận chánh phủ kháng chiến sau khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc nhìn nhận và bắt đầu viện trợ võ khí cho Việt Minh, gởi cố vấn chánh trị và quân sự cho chánh phủ kháng chiến, huấn luyện và chữa bịnh cho thương binh Việt Minh ngoài biên giới Việt-Hoa.
Hồ Chí Minh là người Cộng Sản cực đoan và giáo điều. Ông không dám chỉ trích chánh sách sống chung hòa bình với phương Tây và sự hạ bệ Stalin của Khrushchev. Ông cũng không vui khi thấy Khrushchev tháo gỡ hỏa tiễn ở Cuba năm 1962 vì xem đó là sự nhượng bộ và thua kém của khối Cộng Sản trước khối Tư Bản. Khrushchev không tích cực ủng hộ việc giải phóng miền Nam vì một đóm lửa nhỏ có thể gây một đám cháy lớn trong khi Beijing nỗ lực giúp đỡ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng tiến hành chiến tranh nhân dân ở miền Nam Việt Nam để làm rỉ máu Hoa Kỳ chớ không phải để thắng lợi theo sách lược của Mao Zedong (Mao trạch Ðông). Brezhnev là lãnh tụ diều hâu của Liên Sô nhưng ông cũng muốn giàn xếp với Hoa Kỳ để giải quyết chiến tranh Việt Nam vào năm 1967 khi thủ tướng Kosygin (1904-1981) đến Hà Nội. Năm 1972 cả Brezhnev lẫn Mao Zedong đều vui vẻ tiếp đón tổng thống Hoa Kỳ Nixon (Cộng Hòa). Lập trường diều hâu của Hồ Chí Minh và Lê Duẩn thích hợp với đường lối diều hâu của Brezhnev mặc dù ông nầy vẫn tiếp nối chánh sách sống chung hòa bình với phương Tây của Khrushchev. Brezhnev dùng Cộng Sản Việt Nam xâm lăng Cambodia, phá vỡ chánh quyền Khmer Ðỏ thân Trung Hoa Cộng Sản (cuối năm 1978). Nhưng khi Trung Hoa Cộng Sản và Việt Nam đánh nhau ngoài biên giới ông giữ im lặng vàng son (1979). Năm 1988 Gorbachev cũng theo gương nầy khi Hải Quân Cộng Sản Trung Hoa tấn công và chiếm một phần của quần đảo Trường Sa. Ngày nay Putin bán võ khí cho Trung Hoa Cộng Sản đe dọa Cộng Sản Việt Nam và bán võ khi cho Cộng Sản Việt Nam để ‘đương đầu’ với sự đe dọa của Trung Hoa Cộng Sản!! Nhưng đối với Bashar Assad Putin rất hết lòng vì Nga có một hải cảng trên bờ biển Syria và Syria là nơi tiêu thụ xe tăng, tàu chiến, phi cơ và các loại võ khí của Nga. Nga và Trung Hoa Cộng Sản dùng quyền phủ quyết bác bỏ mọi nghị quyết trừng phạt Syria của Liên Hiệp Quốc. Nga tích cực viện trợ võ khí cho Syria để đánh phe nổi dậy, đưa tàu sang miền Ðông Ðịa Trung Hải như sẵn sàng nghinh chiến với Hoa Ký nếu nước nầy tấn công Syria và cực lực phủ nhận Assad dùng võ khí hóa học giết dân lành ngày 21-08-2013 vừa qua.
3. Hồ Chí Minh và Hafez Assad nắm chánh quyền bằng bạo lực.
Ông Hồ Chí Minh và Hafez Assad đều nắm chánh quyền bằng bạo lực. Năm 1946 Việt Minh cướp chánh quyền ở Hà Nội từ chánh phủ Trần Trọng Kim. Vua Bảo Ðại bị áp lực phải tuyên bố thoái vị sau khi nhận một điện tín không có tên người gởi từ Hà Nội. Ðây là thời kỳ huy hoàng của ông Hồ Chí Minh. Ông khéo léo che đậy lý lịch Cộng Sản để khuấy động lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Ông thành công trong việc dối gạt người Việt Nam nhưng ông không dối gạt được Hoa Kỳ. Vì lý lịch Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản của ông mà tổng thống Harry Truman không ủng hộ ông để áp lực với Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam như đã làm đối với Sukarno ở Indonesia dù vẫn biết rằng trong đệ nhị thế chiến Sukarno là người thân Nhật để chống lại Hòa Lan.
Từ ngày độc lập năm 1946 Syria thường có nhiều cuộc đảo chánh. Hafez Assad nắm chánh quyền năm 1970 sau khi đảo chánh lật đổ Nureddin al Atassi cùng đảng Baath với ông.
4. Lý tưởng Cộng Sản của Hồ Chí Minh và lý tưởng Diệt Do Thái của Syria.
Ông Hồ Chí Minh gia nhập vào đảng Cộng Sản Pháp vào tháng 12 năm 1920. Lúc ấy ông chưa biết gì về chủ nghĩa Marx-Lenin, cũng không quan tâm đến cách mạng vô sản 1917 ờ Nga. Ông chỉ phát triển lý tưởng Cộng Sản sau khi được huấn luyện ở Moscow vào năm 1924 và được cử phục vụ cho Borodin ở Guangzhou (Quảng Châu) trong thời kỳ Quốc-Cộng Liên Minh lần thứ nhất ở Trung Hoa. Ðầu năm 1924 ông đến Moscow và khóc sướt mướt khi được tin Lenin qua đời. Ðó là lúc ông gọi Lenin là cha, thầy và cố vấn chỉ đạo. Năm 1927 Quốc Dân Ðảng đàn áp Cộng Sản ở Trung Hoa, ông chạy về Moscow. Nhận lịnh của Moscow ông đi Âu Châu năm 1928, năm ông quen biết Nehru, thủ tướng đầu tiên của Ấn Ðộ độc lập sau nầy. Ông đến Xiêm rồi Hong Kong. Theo lịnh của Moscow ông thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam tại Hong Kong (1930) . Ít lâu sau đảng được cải danh thành đảng Cộng Sản Ðông Dương nghĩa là ông đặc trách việc điều khiển đảng Cộng Sản ở ba nước Việt Nam, Cambodia và Lào theo ý muốn của Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản (Comintern) do Lenin thành lập năm 1919. Năm 1931 ông bị Anh bắt ở Hong Kong. Ông được luật sư Loseby trong Phong Trào Phản Ðế giúp đỡ vượt ngục khi nằm trong nhà tù vì bịnh lao. Ông lên Shanghai (Thượng Hải) và được góa phụ của Quốc Phụ Sun Yatsen (Tôn Dật Tiên) giúp đỡ phương tiện để dùng tàu đi Vladivostok (Hải Sâm Uy). Từ đó ông ngồi xe lửa về Moscow (1933). Ðây là thời kỳ đen tối của ông trên quê hương của Lenin. Ông suýt bị hành quyết như tất cả những người bị liệt vào khuynh hướng Trotskyite vào thập niên 1930 dưới thời Stalin nếu không có sự che chở của Dimitrov, tổng bí thơ Ðệ Tam Quốc Tế Cộng Sản và cố vấn thân tín của Stalin. Năm 1934 ông được tái huấn luyện ở Moscow. Ðến năm 1938, theo chỉ thị của Stalin, ông giả làm ăn mày để vượt biên giới Sô-Trung để đến chiến khu Yenan (Diên An). Hồ Chí Minh (lúc ấy chưa mang bí danh nầy) được Cộng Sản Trung Hoa giúp phương tiện đưa về miền biên giới Việt-Hoa để lập chiến khu và để thu hút cho quân Nhật hướng về phía Nam thay vì chú trọng đến tây bộ Trung Hoa gây bất an cho Liên Sô. Ðông bộ Liên Sô mênh mông tuyết giá và có ít cư dân nên việc bảo vệ biên giới rất lỏng lẻo. Ở Pắc Bó Hồ Chí Minh đặt tên núi cao nhất trong vùng là núi Các Mác (Karl Marx) và suối Lê-Ninh (Lenin) v.v… Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp trong văn phòng của ông luôn luôn có hình của Lenin và Stalin.
Nhìn chung ông không bị ở tù ở Việt Nam ngày nào và tất cả những hoạt động của ông đều nhằm phục vụ cho Liên Sô. Ông ở tù ở Trung Hoa hai lần vì hoạt động cho Quốc Tế Cộng Sản (Comintern) theo lịnh của Stalin. Khi bị Quốc Dân Ðảng đe dọa tánh mạng (1927 hay lúc rời khỏi ngục thất Hong Kong (1933) ông đều chạy về Liên Sô nơi ông xuất phát và nhận lịnh công tác và hành động. Ông say sưa với việc
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
đến quên nhắc đến cha mẹ mình, quên dự đám tang của anh, quên tiếp chị, quên tên các anh hùng dân tộc mà chỉ nhớ đến Marx-Lenin với hình ảnh và tượng đồng của những người xa lạ như Marx, Engels, Lenin, Stalin, Mao Zedong v.v…. Tất cả những điều nầy làm nổi bật việc dối gạt của ông khi khơi động lòng yêu nước của toàn dân Việt Nam với lời kêu gọi năm 1946: ai có súng thì dùng súng, ai có gươm dao thì dùng gươm dao; ai có giáo mác gậy gộc thì dùng giáo mác gậy gộc. Thực chất ông chỉ đem lợi ích cho Liên Sô và Trung Hoa Cộng Sản bằng xương máu của người Việt Nam và di sản tinh thần lẫn vật chất của quê hương Việt Nam. Ông được hư danh ở hai nước láng giềng (Lào và Cambodia), danh hiệu Cominterchick (người Cộng Sản gương mẫu hiến dâng cuộc đời mình cho Quốc Tế Cộng Sản) và được Liên Sô cấp huân chương Lenin năm 1967. Với cuộc kháng chiến chống Pháp do Hồ Chí Minh lãnh đạo, Việt Nam được:
– một đất nước chia đôi sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ vang lừng như Tố Hữu đã viết:
Từ Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng
Lừng lẫy Ðiện Biên chấn động địa cầu.
– miền Bắc đánh đuổi một ngoại nhân (Pháp) để rước hai ngoại nhân (Trung Hoa Cộng Sản và Liên Sô)
– một đất nước bị tàn phá vì chinh chiến do bom đạn của hai phe lâm chiến gây ra
– hàng triệu người chết, bị thương và tản cư từ vùng chinh chiến sang vùng tương đối có an ninh
– hàng trăm ngàn trí, phú, địa, hào bị giết chết trong vùng do Việt Minh chiếm đóng ở Nam, Trung và Bắc Bộ trong thời kỳ kháng chiến và cải cách ruộng đất.
– một triệu người miền Bắc bỏ nơi sinh quán vào miền Nam vì kinh khiếp chế độ Cộng Sản theo chủ nghĩa Mao ở những vùng Việt Minh kiểm soát ngay trong thời kỳ kháng chiến (80% trong số nầy là tín đồ Thiên Chúa Giáo).
Nếu Việt Minh thực sự chiến thắng trận Ðiện Biên Phủ và ông Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo bản lĩnh và hết lòng vì quyền lợi Việt Nam sao lại phải chấp nhận chia đôi đất nước? Việt Nam bị chia đôi nhưng khối Cộng Sản có thêm nửa nước. Ông Phạm Văn Ðồng không có vai trò gì trong hội nghị. Lời đề nghị lấy vĩ tuyến 13 làm đường ranh phân chia không được ai để ý đến. Chuyện lừng lẫy Ðiện Biên chấn động địa cầu trở thành một hư danh nhồi nhét vào đầu óc trẻ em Việt Nam một niềm tự hào ảo.
Người năng nổ tại hội nghị Geneva là Zhou Enlai (Châu Ân Lai) như nói trắng ra rằng chính Trung Hoa Cộng Sản thắng trận Ðiện Biên Phủ và bây giờ họ muốn chia đôi Việt Nam để tránh sự can thiệp của Hoa Kỳ khiến cho Trung Hoa Cộng Sản phải đụng độ với Hoa Kỳ như đã xảy ra ở Triều Tiên năm 1950.
Gần 100.000 cán bộ Việt Minh ở phía nam vĩ tuyến 17 tập kết ra miền Bắc. Có từ 15.000 đến 20.000 cán bộ Việt Minh vẫn ở lại miền Nam để chuẩn bị bầu cử và, nếu không có bầu cử, thì bắt đầu chiến tranh phá hoại ở miền Nam như đã xảy ra từ năm 1957 đến khi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng công khai ra đời. Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng là sản phẩm của Hà Nội. Nhưng Hà Nội khéo che đậy để Ủy Hội Ðình Chiến và dư luận quốc tế đinh ninh đó là một tập hợp chánh trị của người miền Nam chống chánh phủ Ngô Ðình Diệm. Tất cả thành viên trong Mặt Trận đều là những trí thức, tư sản kể cả tu sĩ các tôn giáo gốc miền Nam. Ông Nguyễn Hữu Thọ là chủ tịch của Mặt Trận trong khi còn bị giam giữ ở Phú Yên!
Các ông Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn đều là những người Cộng Sản cực đoan, giáo điều và hiếu chiến. Người thì đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào hay đòi đốt dãy Trường Sơn. Người thì trường kỳ chinh chiến nhất định thắng lợi và cổ võ những cuộc đấu tố, mắng nhiếc, đánh đập và diệt trừ địa chủ. Người thì ai thắng ai một cách ngạo nghễ để tiến mau, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai xây dựng trên xương máu, mồ hôi và nước mắt của người Việt Nam dù đó là chiến tranh chống Mỹ cứu nước, nội chiến hay ý thức hệ gì đi nữa. Khối Cộng Sản có thêm một quốc gia Cộng Sản rộng lớn kể cả Lào và Cambodia. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là quốc gia có diện tích và dân số hạng nhì trong khối Cộng Sản thân Liên Sô sau năm 1975. Người Cộng Sản Việt Nam chiến thắng hành hạ người Việt Nam chiến bại còn tệ hơn người ngoại quốc xâm lăng. Hàng triệu người miền Nam và miền Bắc ngã gục vì chinh chiến. Ba triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do và lẽ sống. Ðó là điều chưa hề xảy ra sau gần một thế kỷ bị người Pháp đô hộ. Cộng Sản Việt Nam đánh Mỹ để Liên Sô và Trung Hoa Cộng Sản được yên ổn kiến thiết xứ sở họ. Người Việt Nam Cộng Sản đánh thắng người Việt Nam không Cộng Sản để rước Liên Sô vào Cam Ranh, Ðà Nẵng, Vũng Tàu, Nha Trang. Tượng Lenin đứng sừng sững ở Hà Nội. Mồ mả người Việt Nam bị san bằng nhưng hài cốt các thủy thủ Nga bại trận năm 1905 trước Hải Quân Nhật được cải táng ở Ðông Ba, xã Tân Thới, Lái Thiêu, với một cái tháp cao bằng đá mài mang vài dòng chữ Nga ngoằn ngoèo (chết vì bịnh thời khí khi chạy thoát đến Việt Nam). Cho đến bây giờ nhiều người vẫn chưa biết cái tháp đó là cái gì?
Lê Duẩn tự hào với nghĩa vụ quốc tế của mình và tự nhận là đánh Mỹ vì Liên Sô và vì Trung Quốc. Sau nầy Nguyễn Minh Triết cũng nhắc đến vai trò của Việt Nam và Cuba trong việc bảo vệ hòa bình với lời ví von rất gợi hình: Việt Nam thức thì Cuba ngủ. Cộng Sản Việt Nam càng kiêu căng hung hãn khi nói: Ðánh bại bất cứ kẻ thù nào dù to lớn đến đâu và xuất phát từ đâu. Vậy mà bây giờ phải chịu Bốn Tốt, Mười Sáu Chữ Vàng đến nỗi không dám nói một tiếng khi tàu Trung Hoa Cộng Sản đụng chìm tàu cá Việt Nam hay bắt, đánh đập ngư phủ Việt Nam và đòi tiền chuộc. Chuyện thua trận của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng giống như chuyện cười trong truyện Cống Quỳnh dùng trâu nghé bú vú làm cho trâu đực của sứ Tàu bị nhột phải bỏ chạy và bị xem là thua trong trận đấu. Hay rõ hơn là hình ảnh anh võ sĩ ốm gầy đánh với anh võ sĩ to lớn và mạnh. Võ sĩ to lớn và mạnh bỏ chạy. Nhưng sau đó lại thấy anh võ sĩ ốm gầy chiến thắng đi nhà thương mỗi ngày còn anh võ sĩ mạnh, to lớn bỏ chạy vẫn sinh hoạt bình thường bên các quầy rượu. Cộng Sản Việt Nam được cảm tình trong dư luận thế giới vì nhân loại kinh hoàng và thương hại cho một quốc gia nhỏ bé lại bị oanh tạc bằng một số lượng bom gấp đôi số lượng bom oanh tạc trong đệ nhị thế chiến. Họ thấy rõ ràng Cộng Sản Việt Nam chống Mỹ cứu nước. Cộng Sản Việt Nam vừa hô hào chống đế quốc không bao lâu thì đã trở thành đế quốc đối với Lào và Cambodia để được viện trợ của Liên Sô.
Liên Sô sụp đổ. Cộng Sản Việt Nam phải vội vàng sang lục địa để xin hàng phục Trung Quốc như xưa và sẵn sàng chấp nhận mọi điều kiện nặng nề do Cộng Sản Trung Hoa đưa ra tóm lược bằng Bốn Tốt và Mười Sáu Chữ Vàng. Lãnh thổ ngoài biên giới, biển đảo lần lượt mất vào tay Trung Hoa Cộng Sản. Việt Nam trên đường Hán hóa.
Lý tưởng Cộng Sản của ông Hồ Chí Minh đưa Việt Nam vào chiến tranh liên tục sau đệ nhị thế chiến. Ðoàn kết dân tộc hoàn toàn tan biến. Những thành phần ưu tú của xứ sở không được trọng dụng còn bị lên án là kẻ thủ của giai cấp vô sản nên bị thủ tiêu hay trù giập. Lưỡng tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường sống dở chết dở. Thạc sĩ Trần Ðức Thảo trở nên điên loạn. Phạm Ngọc Thạch chết trong rừng sâu. Phan Khôi chết trong buồn tủi v.v… Ðất nước bị tàn phá nặng nề. Giá trị tinh thần của dân tộc suy kiệt trầm trọng. Sự tàn phá vật chất tương đối dễ phục hồi hơn sự tàn phá giá trị tinh thần. Chánh quyền Cộng Sản chịu trách nhiệm về sự tàn phá giá trị tinh thần này. Chánh quyền dùng chánh sách chia để trị như chánh quyền thuộc địa đã thi hành trước kia (chia rẽ các thành phần giai cấp trong xã hội, chia rẽ giữa thầy-trò trong học đường, giữa vợ-chồng, con cái-cha mẹ trong gia đình, chia rẽ giữa các địa phương v.v…) Chánh quyền dùng tứ đổ tường (tửu, sắc, tài, phiến) làm tê liệt óc phấn đấu của quần chúng nhất là thanh thiếu niên, những mầm non của tương lai xứ sở; dùng nhạc ủy mị, thất chí, thất tình, hình ảnh dâm ô để ru ngủ, phá vỡ tinh thần lạc quan, óc phấn đấu và trí sáng tạo của giới trẻ; dùng những biện pháp thô bạo để răn đe những người dám tranh cãi và đấu tranh chống lại những sai trái của chánh quyền. Sự đàn áp thô bạo của công an đối với các thanh niên biểu tình xác minh chủ quyền biển đảo của Việt Nam là một hành vi thấp hèn đáng khinh bỉ, báo hiệu những ấn dấu bất tường cho sự tồn vong của đất nước và dân tộc vì chánh quyền tìm cách bóp nghẹt lòng yêu nước của dân. Ðiều đau lòng là số người biểu tình để thể hiện lòng yêu nước rời rạc và ít ỏi so với số người tập họp để khóc Michael Jackson, khóc Diana hay biểu tình đòi hợp thức hóa hôn nhân đồng tính ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh! Ðó là di sản tệ hại của lý tưởng Cộng Sản mà ông Hồ Chí Minh để lại.
Hồ Chí Minh có lý tưởng Cộng Sản. Các nhà lãnh đão Syria có lý tưởng diệt Do Thái. Ðó không phải là lý tưởng đơn lẻ của Syria mà của các quốc gia Hồi Giáo trong vùng. Syria độc lập ngày 17-04-1946. Ðến tháng 05 năm 1948 nước Do Thái ra đời. Syria, Ai CẬp, Saudi Arabia, Jordan, Lebanon, Iraq liên kết lại để tấn công quốc gia tân lập nầy. Họ bị đẩy lui và ký hiệp ước hòa bình riêng rẽ với Do Thái (ngoại trừ Iraq). Từ đó đến thập niên 1980 Syria tham dự các cuộc chiến tranh chống Do Thái với Ai Cập, Jordan năm 1967, chiến tranh ngày Yom Kipper (1973) liên kết với Ai Cập, đưa quân sang Lebanon trong thời kỳ nội chiến giữa nhóm Thiên Chúa Giáo Maronite với người tỵ nạn Palestine, Hồi Giáo Shiite và Sunni. Năm 1981 Do Thái đưa quân sang Lebanon để đánh nhau với người tỵ nạn Palestine bắn phá vào Do Thái. Quân Do Thái lưu lại đó đến năm 2000 mới rút về. Quân Syria còn ở Lebanon lối 14.000 người. Mãi đến năm 2005, vì vụ ám sát cựu thủ tướng Hariri thân Tây Phương bằng bom, Hoa Kỳ và các nước Tây Phương đặc biệt là Pháp áp lực cho Bashar Assad phải rút quân về nước.
Ðể theo đuổi lý tưởng diệt Do Thái, Syria:
– không dùng thời gian để phát triển quốc gia mà phải chịu chế độ độc tài và tôn vinh các nhà độc tài quân sự. Từ năm 1922 đến 2013 (91 năm) Syria có 21 vị lãnh đạo. Riêng gia đình Assad có hai vị lãnh đạo: Hafez Assad lãnh đạo từ năm 1970 đến 2000 và Bashar Assad từ năm 2000 đến nay (năm 2013) tổng cộng 43 năm ngự trị ở Syria tức 47,25% thời gian lãnh đạo của 21 vị lãnh đạo Syria tính từ năm 1922.
– bị Do Thái đánh bại năm 1948, 1967 và 1973. Trong cuộc chiến tranh 06 ngày năm 1967 Syria mất đồi Golan. Cho đến nay Do Thái vẫn còn kiểm soát và khai thác đồi này.
– tùy thuộc vào Ai Cập đến nỗi năm 1958-1961 Syria phải sáp nhập vào Ai Cập để thành lập Cộng Hòa Á Rập Thống Nhất dưới sự lãnh đạo của Nasser! Ðến năm 1961 Syria mới tách rời khỏi Ai Cập. Một cuộc xung đột đẫm máu diễn ra ở Damascus giữa phe chủ trương sáp nhập với Ai Cập và phe chủ trương độc lập khỏi Ai Cập.
– tự gán cho mình một trách nhiệm và bổn phận to tát: bảo vệ, che chở, chứa chấp người Palestine tỵ nạn; can thiệp võ trang vào vương quốc Jordan giúp người tỵ nạn Palestine ở đó từ năm 1948 như muốn lật đổ ngai vàng của vua Hussein, một vị vua thân Tây Phương quá chán ngán những cuộc bạo động của các đặc công Palestine fedayeen ở Jordan. Sau việc Syria đưa xe tăng vào Jordan, vua Hussein cương quyết chống trả và đuổi các đặc công Palestine fedayeen ra khỏi Jordan. Sự kiện nước nầy được người Tây Phương gọi là Tháng Chín Ðen (Black September) vì xảy ra vào tháng 09 năm 1970. Tháng 11 năm ấy một vị thủ tướng Jordan, Wafi al-Tall, bị một thành viên của tổ chức Fatah của Arafat ám sát ở Cairo. Syria và Lebanon phải đón nhận những người Palestine nầy. Syria ủng hộ Hamas, chứa chấp những người chỉ huy Hamas trong nước. Nhưng họ cấm người Palestine ở Syria hoạt động vì sợ Do Thái trả đũa bằng cách tấn công Syria, nhưng Syria ủng hộ cho người Palestine ở Lebanon trong cuộc nội chiến có tính tôn giáo, giáo phái và bài Do Thái kéo dài từ năm 1975 đến 1989. Sự nhảy múa của Syria ở Jordan hay Lebanon làm cho chúng ta nhớ đến sự nhảy múa của Cộng Sản Việt Nam ở Lào và Cambodia trong hai cuộc chiến tranh và sau khi Việt Nam thống nhất dưới chế độ Cộng Sản.
– tùy thuộc vào Iran (Hồi Giáo Shiite) sau khi Ai Cập hướng về Hoa Kỳ và làm hòa với Do Thái để thu hồi lại bán đảo Sinai, bắt thân thiện với Iraq của Saddam Hussein, bắt thân thiện với Hoa Kỳ và các nước Tây Phương kể cả các nước Hồi Giáo thân thiện với Hoa Kỳ! Syria suýt có chiến tranh với Thổ Nhĩ Kỳ vì nước nầy thân Tây Phương và có xung đột với phong trào người Kurds đòi tự trị. Syria chứa lãnh tụ PKK của người Kurds là Abdullah Ocalan trong nước. Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa. Họ lo sợ phải yêu cầu vị lãnh tụ người Kurds nầy rời khỏi Syria (1998). Hiện nay bang giao giữa Syria-Thổ Nhĩ Kỳ rất căng thẳng vì Syria cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ giúp đỡ và huấn luyện phe nổi dậy chống Assad trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ gần biên giới Syria.
– tùy thuộc vào Nga về võ khí và huấn luyện quân sự để đương đầu với Do Thái, Hoa Kỳ và các nước Tây Phương phi Hồi Giáo. Liên Sô bắt đầu có ảnh hưởng ở Trung Ðông sau cuộc khủng hoảng kinh đào Suez năm 1956. Nasser nghiêng theo Liên Sô dù vẫn biết rằng chủ nghĩa Marx-Lenin là chủ nghĩa chống tôn giáo. Thực tế ông Nasser nghĩ đến quyền lực của mình hơn là tôn giáo. Chính bản thân ông cũng không ưa gì Huynh Ðệ Hồi Giáo với chủ trương giáo trị. Syria theo Nasser nên ngả theo Liên Sô. Liên Sô bị mất thể diện nặng nề sau hai cuộc chiến tranh 06 ngày năm 1967 và chiến tranh ngày Yom Kipper năm 1973 giữa Do Thái-Ai Cập + Jordan + Syria (1967) và Do Thái-Ai Cập + Syria (1973). Tổng thống Sadat của Ai Cập chấm dứt sự kình báng với Hoa Kỳ và Do Thái kể từ năm 1979 dưới thời tổng thống Carter (Dân Chủ). Hai năm sau ông bị nhóm Hồi Giáo quá khích bắn chết. Mubarak lên thay và tiếp nối đường lối của Sadat suốt 30 năm liền. Syria vẫn nuôi lý tưởng diệt Do Thái mặc cho sự chuyển hướng của Ai Cập và Jordan. Lý tưởng nầy được Bashar Assad, một người Tây học có vợ Hồi Giáo sinh trưởng ở Anh, trân quí. Ðó là cách vĩnh cửu quyền hành hay là đường lối cứu quốc? Thực tế trả lời câu hỏi ngắn gọn nầy. Ai Cập làm hòa với Do Thái và Hoa Kỳ để nhận hàng tỷ Mỹ Kim mỗi năm và thu hồi lại bán đảo Sinai bị Do Thái chiếm trong chiến tranh 06 ngày. Nếu liên minh các nước Á Rập không thắng nổi Do Thái ngay từ ngày lập quốc khi mọi tổ chức còn ấu trĩ thì một mình Syria có thể làm được gì một khi Do Thái trưởng thành và vững mạnh về mọi mặt? Dùng sức mạnh của nước khác để diệt Do Thái có lợi gì cho Syria sau khi Do Thái bị diệt? Trước mắt Do Thái không bị diệt, trái lại Syria mất đất (Golan), thỉnh thoảng bị Do Thái oanh tạc. Syria phải cho tàu chiến Nga sử dụng Tartus, lệ thuộc Iran về võ khí, tiền bạc và cả Hezbollah về sự trợ giúp của nhóm nầy trong cuộc nội chiến đang diễn ra.
Lý tưởng Cộng Sản của ông Hồ Chí Minh và lý tưởng diệt Do Thái của Syria dẫn đến những hậu quả tương đối giống nhau:
– vĩnh cửu quyền hành và chế độ độc tài (đảng Baath và đảng Cộng Sản Việt Nam; gia đình Assad và tập đoàn lãnh đạo Cộng Sản)
– đất nước mất độc lập, chủ quyền; dân chúng mất tự do và chỉ thấy bất công, thống khổ, lạc hậu chớ không thấy hạnh phúc. Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lệ thuộc vào Liên Sô. Liên Sô sụp đổ họ phải lệ thuộc Trung Quốc. Tình trạng Việt Nam trầm trọng hơn Syria nhiều vì có nguy cơ biến dần trên bản đồ thế giới mà không có chinh phục hay đề kháng!
– vị trí địa lý chánh trị của Việt Nam và Syria biến hai nước nầy trở thành địa bàn giành giựt giữa các liệt cường như huyền thoại Sơn Tinh và Thủy Tinh. Việt Nam là Mỵ Nương. Trung Hoa Cộng Sản hiện đóng vai Sơn Tinh với nhiều lợi thế đáng kể. Hoa Kỳ đóng vai Thủy Tinh. Hoa Kỳ là một dân tộc ưa chuộng thể thao. Trong thể thao tất phải trọng qui luật thể thao. Người thắng hay bại phải giữ tinh thần thể thao. Người ưa thích thể thao thích cạnh tranh, phấn đấu, kiên trì và nuôi dưỡng tinh thần quyết thắng cho đến phút chót của sự giao đấu. Hoa Kỳ thành công trong Ðệ Nhất Thế Chiến (1914-1918), Ðệ Nhị Thế Chiến (1939-1945), Chiến Tranh Lạnh (1949-1991), trong việc giàn xếp hòa bình giữa Ai Cập và Do Thái (1979), trong việc xua đẩy ảnh hưởng của Liên Sô ra khỏi Ai Cập. Có ngày N cho Hoa Kỳ đóng vai Sơn Tinh ở Việt Nam và Syria không? Ðó là vấn đề thời gian hay chuyện THIÊN CƠ?
Phạm Ðình Lân, F.A.B.I.