Edex Maex
Dừng lại và nhìn sâu – Thiền tập trong Phật giáo
Bạt:
Bài viết ‘Dừng lại và nhìn sâu' dưới đây là bài thứ ba trong tâp hợp năm bài viết đã được phổ biến trên nguyệt san ‘Triết học - Filosofie', 2004-2005. Ðây là những tiểu luận về Phật giáo nhìn từ phương tây, đưọc viết từ trong bối cảnh của một truyền thống Phật giáo rất mới, đưọc gọi là Phật giáo tây phương. Tác giả, tiến sĩ Edel Maex là một nhà tâm lý trị liệu làm việc ở bệnh viện Middelheim tại Antwerpen, Bỉ. Ông là một trong những người sáng lập và ở trong ban điều hành của Trường Triết học tỉ giải (School voor comparatieve filosofie) ở Antwerpen. Ông là một người thực tập Thiền.
Năm bài viết của ông đã được nhà xuất bản Lannoo gom lại và vừa cho xuất bản dưới tựa đề ‘Tiểu luận về Phật giáo - Een kleine inleiding in het boeddhisme' trong tháng 10 năm 2005. Xin cảm ơn tác giả và nhà xuất bản đã vui lòng cho phép dịch thuật và phổ biến năm bài viết này.
Những chữ nằm trong dấu [ ] là phần thêm vào của người dịch.
Nguyễn Thanh Hùng
*
Dừng lại và nhìn sâu – Thiền tập trong Phật giáo
Nhìn vào hình tướng của Bụt, bạn thường thấy người được vẽ hay tạc trong tư thế tọa thiền. Thiền tập vì thế chắc phải rất là quan trọng. Vậy Bụt ngồi như thế để làm gì? Ðiều gì trong tứ diệu đế đã thúc đẩy ta ngồi trong im lặng để thiền tập? Nói khác đi, làm sao ngồi trong im lặng lại có thể làm cho ta hiểu tứ diệu đế sâu sắc hơn và đưa ta đến thực hành?
Giáo lý nhân quả (karmaleer) bao hàm trong tứ diệu đế cho rằng chúng ta là tác giả và là người thừa kế những hành xử của chính mình. Vì thế, rất là hợp lý khi ta không đi tìm ở [thế giới] bên ngoài những giải đáp cho các vấn đề và sự khổ đau của mình, nhưng là bắt đầu tìm kiếm và lưu ý ở ngay nơi mà những hành động được khởi sinh, đó chính là tâm thức của chúng ta (onze eigen geest). Ðối với Bụt, thực hiện việc đó như thế nào không phải là dễ. Ðó là kết quả của một cuộc tìm kiếm lâu dài.
Bụt ngồi đó làm gì?
Trong kinh tạng Pali, Bụt đã tường trình rất chi tiết cuộc tìm kiếm của người, từ lúc khởi đầu cho đến chung cuộc, tới khi người trở nên tỉnh thức (Danh từ Boeddha có nguyên nghĩa là ‘tỉnh thức'). Ở đây thiền tập đóng một vai trò rất quyết định. Cuộc đời của Bụt mà ta thường được nghe kể lại thuộc dạng huyền thoại cổ điển, trong đó chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng (symbolisch). Trong bài này chúng ta chỉ trưng dẫn những tài liệu tiểu sử tự thuật (autobiografisch) tìm được trong kinh điển Pali mà không động đến những huyền thoại vẫn được nhiều người biết đến hơn về Bụt.
Bụt kể người đã lớn lên như thế nào trong sự giàu sang (tên thật của ông là Siddharta Gautama, là người thuộc giòng tộc Sakyans). Ông được thừa hưởng ba tòa lâu đài, một tòa cho mùa mưa, một tòa cho mùa đông và một tòa cho mùa hè. Ði đến đâu ông cũng được một đoàn ca nhạc sĩ toàn là phụ nữ tháp tùng (một hình thức walkman trước thời đại). Thế nhưng ông vẫn không hài lòng. Lòng ông thường trực bị xâm chiếm bởi một nhận thức sâu sắc về sự hủy hoại và ngắn hạn của đời sống. Việc phải đối diện không tránh khỏi với khổ đau làm tâm hồn ông tràn ngập một niềm bi phẫn. Cha mẹ ông đã vô cùng buồn rầu (khác với huyền thoại cổ điển, ở đây [kinh tạng Pali] không thấy nhắc tới một người vợ và một đứa con), khi ông quyết định bỏ nhà ra đi, để đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi của mình.
Ðầu tiên, cuộc tìm kiếm đã đưa ông đến gặp hai vị thầy dạy thiền tập. Thiền tập ở Ấn Ðộ thời bấy giờ có vẻ đã là một thực tập phổ biến. Shiddharta là một học sinh đặc biệt thông minh, nhưng ông không hài lòng với những điều gặt hái được. Ông từ chối lời thỉnh cầu trở nên người truyền thừa của hai vị thầy. Ðiều mà ông học hỏi được là những kỹ thuật vượt thoát ra khỏi thực tại một cách có hệ thống để bước vào một thế giới khác, nơi mà cuối cùng mọi kinh nghiệm chấm dứt sự hiện hữu của nó. Ðiều phải thừa nhận, trong những giây phút trầm mặc sâu sắc này, khổ đau cũng chấm dứt hiện hữu. Nhưng một khi thiền giả xuất ra khỏi trạng thái đó, thì tất cả cũng xuất hiện trở lại, kể cả khổ đau. Ðiều này không phải là điều ông tìm cầu.
Phương pháp mà ông chú tâm thực tập kế tiếp là sự khổ hạnh nghiêm nhặt (ascese). Ở đây ông cũng đi đến mức tận cùng. Các kinh điển xưa cũ ghi lại sự kiện thân thể ông còm cõi đến mức khi đứng trên cát, dấu chân gầy rạc của ông để lại trên đó trông tựa như dấu móng của con lạc đà. Cũng thế, con đường khổ hạnh này không đem đến cho ông kết quả mong đợi. Ông ý thức rằng không thể tiến xa hơn được nữa trên con đường này. Một bước tới nữa chỉ có thể đồng nghĩa với cái chết. Ông bắt đầu ăn uống trở lại và chăm sóc thân thể của mình. Ông lang thang và không biết phải tiếp tục như thế nào.
Kinh điển kể lại, khi đó ông chợt nhớ đến lúc còn nhỏ, vào một ngày đẹp trời, khi ngồi dưới một gốc cây ngắm nhìn người dân làm việc trên một cánh đồng, ông tự dưng nhập vào một trạng thái của hiện diện minh mẫn và yên tĩnh. Vì thế cho nên ông quyết định đi tới trên con đường thiền tập. Ðiều ông đã làm lúc đó chính là một trực giác thiên tài. Thay vì thoát ra khỏi thực tại, ông đã dùng sự minh mẫn của tâm thức được nuôi dưỡng trong khi thiền tập, để hướng sự chú tâm của ông vào chính thực tại. Bằng sự hiện diện tỉnh táo và cẩn trọng, ông nghiệm ra rằng trong một quá trình liên tục, cách thức những quyến rũ cũng như những ý tưởng nối đuôi nhau xuất hiện, cũng như cách thức tâm thức chụp bắt và xua đuổi, tạo tác và tiêu diệt. Như thế nào mà quá trình liên tục của xuất hiện và tàn hoại này, khi xảy ra không ngơi nghỉ cho chính ông và những người khác, đã tạo ra vô vàn những thế giới, những ảo tưởng. Cái nguyên nhân khiến cái này tạo tác ra cái kia bỗng hiển lộ thật rõ ràng đối với ông. Cuối cùng, không phải không còn bất ngờ, ông khám phá ra trong sự hiện diện tỉnh táo đó (heldere aanwezigheid) và trong chính sự trong suốt của nó (doorzichtigheid) mà tiến trình này tan biến và dừng lại như thế nào. Vào lúc đó ông thực sự chứng nghiệm rằng: đây là điều ông tìm kiếm lâu nay. Chính ở đây khổ đau không còn hiện hữu nữa.
Khám phá này đối với ông còn quá mới mẻ, khiến ông thoạt đầu chưa biết phải chia xẻ với người khác như thế nào. Bằng một cách thức đặc biệt Ấn Ðộ, các kinh điển đưa ra hình ảnh một vị thần đến thỉnh cầu Bụt chia xẻ khám phá này với người khác vì ‘những kẻ có ít bụi trong mắt sẽ nhìn thấy được'.
Ðầu tiên, Bụt đi tìm hai vị thầy đầu tiên đã dạy ông thiền tập, nhưng hai vị đã qua đời. Vì thế người mới đi tìm các người bạn đã cùng tu khổ hạnh sau đó. Khi các vị này thấy Bụt từ xa đi đến, họ hẹn với nhau rằng sẽ làm như họ không trông thấy Người. Trong mắt họ, Bụt là một kẻ thất bại, một kẻ đã không chịu nổi sự kiêng khem kham khổ của phép tu khổ hạnh. Cho tới khi Bụt tiến tới gần… Khuôn mặt của Bụt rạng rỡ… Các vị tu sĩ không thể nào làm gì khác là đỡ lấy áo khoác và bình bát cho Bụt, mọi người ngồi xuống và hỏi thăm: điều gì đã xảy đến cho bạn? Bụt thuật lại những gì người đã làm trong thời gian qua. Cuộc nói chuyện này đã được ghi lại như bài thuyết pháp đầu tiên, trong đó Bụt lần đầu tiên giảng giải về giáo pháp tứ diệu đế.
Dừng lại và nhìn sâu
Về thiền tập, có hai giai đoạn được nhắc đến trong bài giảng của Bụt:
1.- Samatha [chỉ]:
Các vị thầy đã chỉ dạy cho Bụt một hình thức thiền tập đưa tới sự chấm dứt tất cả các hoạt động tâm ý (mentale activiteit). Ðó là sự thiền tập nhắm tới sự dừng lại (samatha). Kỹ thuật đưa tới kết quả này là sự tập trung. Ðây cũng là một phương pháp mà chúng ta vẫn thấy trong các kỹ thuật thiền tập và thư giãn không nằm trong Phật giáo.
Cho dù Bụt đã là một bậc thầy trong kỹ thuật này, người vẫn không hài lòng và đã bỏ qua phương pháp tu tập này.
2.- Samatha-vipassana [chỉ-quán]:
Sau khi các phương pháp khác không mang lại hiệu quả mong muốn, Bụt quay lại với phương pháp thiền tập nhưng không chỉ là sự thiền tập đơn thuần. Phương pháp thiền tập mà người đã tự sáng chế ra là một tổng hợp của dừng lại (samatha) và nhìn sâu (vipassana). Với sự tỉnh táo của tâm thức, người chiếu sự chú tâm vào thực tại và đạt được tuệ giác. Tất cả những gì mà chúng ta đã bàn đến trong bài viết thứ hai ‘Giải thoát khỏi ảo tưởng – Phật giáo như một triết học' trở nên thật trong suốt rõ ràng đối với Bụt.
Dừng lại đề cập đến sự ngưng nghỉ các tập quán máy móc của tâm thức, bằng cách tập trung sự chú tâm vào một đối tượng nhất định nào đó. Với nhìn sâu, chúng ta muốn nói đến việc hướng sự chú tâm vào điều đang xảy ra. Nhìn sâu không phải chỉ bằng đôi mắt, mà bao gồm tất cả các giác quan, kể cả tâm [mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý] (Trong Phật giáo, tâm được coi là giác quan thứ sáu, có khả năng ghi nhận những suy tưởng của chúng ta).
Như thế, cả hai phương thức samatha và vipassana hợp lại thành một tổng thể hữu cơ. Samatha và vipassana tương quan với nhau và được học hỏi như thể là sợi chỉ điều xuyên suốt các kinh điển thiền tập Phật giáo trong 2500 năm qua. Vì những lý do giáo khoa, một số truyền thống đã thực tập ‘dừng lại' trước tiên rồi mới chuyển sang những thực tập nhắm nhiều hơn vào tuệ giác, vào nhìn sâu. Những truyền thống khác lại chú tâm từ lúc bắt đầu với những thực tập bao gồm cả hai phương thức.
Không lý thuyết suông
Không có ích lợi gì để tìm hiểu một cách lý thuyết về những điều thật thực tiễn. Thiền tập ngoài ra còn là một phương pháp rất dễ áp dụng. Tất cả những gì bạn cần chỉ là thân và tâm. Gối và nệm ngồi thiền, và những dụng cụ khác có thể có ích lợi nhưng không nhất thiết không có không được. Ngoài ra, bạn có thể thực hành thiền tập bất cứ lúc nào. Vài ba phút cũng đủ để học cách thực tập thiền.
Bây giờ, tôi xin mọi người đọc tạm thời để bài viết này qua một bên và thử thực tập trong tư thế bạn đang có. Nếu bạn khám phá tư thế đang có chưa được thoải mái lắm thì hãy thay đổi tư thế cho thật thoải mái.
Hãy đặt sự chú tâm của bạn vào hơi thở. Bạn không cần phải thay đổi cách thở. Chỉ theo dõi, cảm nhận hơi thở vào như thế nào, hơi thở ra như thế nào. Khi nào cảm thấy mình đang đánh mất sự chú tâm, thì bạn lại đặt sự chú tâm vào lại nơi hơi thở. Bạn hãy thử thực tập như thế trong vòng vài phút.
***
Thực tập vừa rồi mà bạn đã làm, trước hết, có thể được xem như một thực tập của dừng lại. Lời hướng dẫn là đặt sự chú tâm vào hơi thở. Nếu do chỉ đơn thuần như là một thực tập samatha mà thôi thì có lẽ bạn đã không thành công. Trong vòng hai phút, gần như tất cả mọi người đều khám phá rằng sự chú tâm của chúng ta lại bị thất tán. Vào lúc này có thể kể ra hai cạm bẫy:
Cạm bẫy thứ nhất là sự khó chịu. Có một cơ hội cụ thể là qua sự thực tập thường xuyên bạn trải nghiệm được sự tĩnh lặng, dễ chịu và tính trị liệu của sự thực tập theo dõi hơi thở này. Nhưng có một cơ hội lớn hơn nữa là bạn hoàn toàn không trải nghiệm điều gì giống như thế cả ở lần thực tập đầu tiên. Rất nhiều người đã cảm thấy thật khó chịu vì liên tục đánh mất sự chú tâm. ‘Thấy chưa, tôi đâu có thể làm được…'. Sự khó chịu tự nó không phải là một vấn đề lớn. Nó chỉ làm lộ ra một cung cách phản ứng (reactiepatroon) cũ kỹ bình thường. Cạm bẫy nằm ở kết luận sai lầm, là mình không làm được thực tập này. Nhưng kinh nghiệm khó chịu là chuyện thông thường xảy ra và tự chúng không phải là những lý do để ta bỏ cuộc.
Nhẫn nại như thế là một điều kiện tuyệt đối phải có để thực hành thiền tập.
Cạm bẫy thứ hai, thật là kỳ lạ, lại chính là sự tập trung. Một sự tập trung trong chừng mực nào đó là điều tốt nhưng sự thực tập sẽ hoàn toàn rời xa mục đích của nó nếu người hành thiền, trong suốt thời gian thực tập, đã thành công trong việc chỉ biết chú ý đến giòng chảy lên xuống của hơi thở với sự dễ dàng thoải mái. Bởi vì nếu đi xa hơn theo phương pháp này, chúng ta sẽ bị kẹt trong cái mà Bụt đã học được của các vị thầy dạy thiền tập, đó là sự thực tập samatha đơn thuần.
Cái mà theo lời chỉ dẫn (instructie) nhằm đạt được là làm hiển lộ điều đang xảy ra. Trong sự theo dõi hơi thở và sự thất bại kèm theo, chúng ta thấy được hoạt động (werking) của tâm thức. Ở đây không chỉ là samatha mà là kết hợp của samatha và vipassana, dừng lại và nhìn sâu. Cho một thực tập samatha đơn thuần, hơi thở không phải là một đối tượng tập trung thật thích hợp. Hơi thở của chúng ta luôn chuyển động và ngoài ra còn phản ứng theo với mọi thứ xảy ra ở trong và xung quanh ta. Cũng chính vì lý do đó mà phép theo dõi hơi thở là một bước dẫn nhập tuyệt hảo để thực tập samatha vipassana.
Ðã nói thế, bây giờ xin mời bạn thử làm lại thực tập vừa rồi một lần nữa, bắt đầu bằng cách theo dõi hơi thở và sau đó cứ quan sát điều gì đang xảy ra. Với một sự chú tâm nhẹ nhàng, cởi mở, bạn hãy để cho những điều gì đến cứ đến, không bám víu vào đó cũng không xô đẩy ra, không đi sâu vào cũng không ngăn chặn. Cứ mỗi khi biết mình đang mất sự chú tâm hoặc đánh mất mình trong những điều đang xảy ra, bạn lại trở về với hơi thở và với sự chú tâm nhẹ nhàng, cởi mở.
****
Samatha-vipassana là dừng lại và nhìn sâu những điều đang xảy ra, với sự chú tâm nhẹ nhàng, cởi mở. Lời chỉ dẫn này thật đơn giản hết sức. Ðơn giản nhưng không phải dễ dàng. Ðể có thể ứng xử [tốt] với những điều dang xảy ra, bạn nên tìm một vị thầy nhiều kinh nghiệm để học hỏi. Cho tới giai đoạn này, tôi đã chỉ nhắc chừng bạn về hai cạm bẫy vừa kể. Cạm bẫy thứ ba là sự gợi ý (suggestie). Lời chỉ dẫn thật rõ ràng: bạn hãy quan sát bất kỳ điều gì đang xảy ra. Nhưng bởi vì là con người, chúng ta có thể biết khá chắc chắn rằng những điều đang xảy ra [trong tâm thức] không hoàn toàn đẹp đẽ và tốt lành. Nguy hiểm lớn ở đây nằm chính ở chỗ chúng ta tìm cách sắp đặt (manipuleren) kinh nghiệm của mình theo chiều hướng nào đó mà chúng ta thấy thích hợp với mình và với việc thiền định. Hậu quả thường là sự tỉnh ngộ, vì cuối cùng ta đành phải chịu thú nhận rằng những điều ta mong cầu đã không xảy ra, và như thế những điều [thật sự] xảy ra đã vượt thoát ra khỏi sự chú ý của ta.
Cạm bẫy thứ tư là sự say mê với cái nội dung mà những điều đang xảy ra mang đến. Bằng cách học hỏi tâm thức qua cách [quan sát] này mà Phật giáo, qua thời gian, đã hình thành như một ngành tâm lý học rất có hệ thống. Tâm lý học đương đại Tây phương, hãy còn trong giai đoạn phát triển, đã bắt đầu có ý thức về sự hữu dụng của hệ thống [tâm lý học Phật giáo] này. Nhưng cần ghi nhớ rằng tâm lý học trong bối cảnh này chỉ là một sản phẩm phụ. Ðiều quan trọng nhất vẫn là sự giải thoát, chứ không phải là một ngành tâm lý học.
Nhìn rõ điều chi?
Tất cả những điều được nói trong bài trước (Giải thoát khỏi ảo tưởng – Phật giáo như một triết học), có thể trước đây còn như một triết lý trừu tượng, bỗng trở nên sinh động dưới tác động tài tình của samatha-vipassana. Chỉ mới trong vòng hai phút thử chú tâm theo dõi hơi thở, đã đủ cho phần đông chúng ta thấy được sự hỗn loạn của tâm thức. Nếu nhìn kỹ hơn, bạn sẽ thấy được sức mạnh của si mê, sân hận và những khuôn mẫu mù quáng (blinde patronen) hợp lại xô đẩy tâm thức. Những gì xảy ra ngay lúc này trong tâm thức và điều mà bạn có thể cảm nhận được ngay lúc này chính là những quy luật (wetmatigheid) của nguyên nhân và hậu quả và sự hình thành của khổ đau. Ðể có thể thấy được điều đó, điều duy nhất bạn phải làm là chịu đứng yên và nhìn cho kỹ.
Trong khi dõi theo những xuất nhập của ấn tượng, tình cảm và ý tưởng, bạn nhận chân được tính vô thường của tất cả những điều chúng ta có thể tưởng tượng được. Không có điều gì cố định. Không có gì đủ vững chãi để ta có thể bám víu vào. Tiến trình [nhận thức] này có thể đôi lúc làm ta đau khổ. Nếu không nhẹ nhàng và từ bi với chính mình, chúng ta sẽ khó chấp nhận được. Một thái độ nhẹ nhàng nhưng quyết tâm và lòng từ bi không những làm cho tiến trình [nhận thức] này khả dĩ thành công mà còn tạo nên liều thuốc giải độc lành mạnh (heilzaam antidotum) cho những tình trạng tâm lý không lành mạnh xuất hiện trong lúc chúng ta thiền tập. Cho tới khi chúng ta nhận thức rằng bám víu vào bất kỳ một cái gì cũng chỉ là một cố gắng hoàn toàn vô ích, và chỉ có sự chú tâm cởi mở, nhẹ nhàng và không thỏa thuận là đủ (volstaat) và [điều này] có nghĩa là một sự giải phóng vĩ đại.
Ðây là bối cảnh của thực tại tột cùng. Sự tỉnh ngộ càng trọn vẹn chừng nào, thì sự ám ảnh với những ảo tưởng chế ngự ta càng lúc càng nhỏ đi chừng nấy. Ðiều còn lại là một sự cởi mở trọn vẹn, tỉnh táo (totale, gedesillusioneerde openheid). Một sự cởi mở không còn trông mong bất cứ điều gì nữa, không còn nhu cầu để thêm thắt chút gì vào thực tại, kể cả những ý niệm mà chúng ta vẫn thường dùng để xoay chuyển thực tại theo ý mình (naar onze hand te zetten) và [qua đó] tạo ra ảo tưởng rằng thực tại rất quen thuộc.
Trạng thái này của cởi mở tự nó là một trạng thái rất tự nhiên, được nhiều người biết đến. Kể cả Bụt cũng đã nhớ lại lúc còn nhỏ, ngồi dưới bóng mát của một gốc cây, người cũng đã tự nhiên cảm nhận được. Sự cởi mở tự nhiên của tâm thức này trên nguyên tắc, luôn luôn có mặt. Không có sự cởi mở này, chúng ta khó lòng có thể sinh hoạt được. Nhưng sự cởi mở này thường xuyên bị lấp đầy bởi những ý niệm, suy tưởng, mong chờ, dự định… cho đến mức chúng ta gần như không còn ý thức được sự có mặt của nó nữa. Trong khi thiền tập, chúng ta học giữ cho sự cởi mở này được rộng mở trong khi theo dõi trò chơi của những thứ lấp đầy tâm thức chúng ta tiếp tục đi đến và lại ra đi.
Như thế, ở đây hoàn toàn không nói đến một thứ kinh nghiệm ‘huyền bí' đặc biệt (‘mystieke' ervaring). Nhận thức về sự cởi mở có thể đôi lúc được cảm nhận thật mãnh liệt, nhất là khi nó được thể nghiệm trong tương phản với sự khép kín cứng nhắc (krampachtige afgeslotenheid) mà chúng ta thường có trong đời sống. Sự mãnh liệt của kinh nghiệm này đôi khi trở thành một thứ cạm bẫy. Sự cởi mở [có thể] được lấp đầy ngay tức khắc bằng một ước ao giữ chặt và sống lại [kinh nghiệm về] sự mãnh liệt này. Nó dễ trở thành một thứ kinh nghiệm mà chúng ta muốn xem như một đạo bùa được may chặt vào cổ, để không bao giờ có thể đánh mất được. Cái nỗ lực bám víu cứng nhắc này có thể là một cản trở cho những nhận thức về sự cởi mở được tiếp tục xảy ra ‘Phụng Phật, sát Phật', đó là câu tuyên bố bất hủ của Thiền sư Lâm Tế về cạm bẫy này.
Xuống núi
Trong ngành hội họa Phật giáo Trung Hoa, Bụt Thích Ca Mâu Ni (vị Bụt lịch sử) vẫn thường được minh họa trong tư thế đang đi, trong khi người xuống núi, chứ không phải trong tư thế tọa thiền. Cái nguyện vọng được an trú mãi trong bối cảnh của thực tại tột cùng tự nó đã là một mâu thuẫn nội tại (contradictio in terminis). Nhận thức về thực tại tối hậu tức khắc đưa chúng ta trở về với thế giới ước lệ, thế giới của ý niệm và suy tưởng, của quan hệ và mơ ước, nhưng lần này với một số ảo tưởng ít hơn hẳn. Như Mark Epstein đã diễn tả: vấn đề không nằm ở chính sự ước ao mà ở sự kiện chúng ta chờ đợi nơi đối tượng của sự ước ao hơn qua cái mức mà đối tượng của sự ước ao có thể cung cấp cho chúng ta.
Dừng lại làm hiển lộ. Qua nhìn sâu mọi sự trở nên sáng tỏ. Sự minh bạch rõ ràng này đưa đến giải phóng. Câu chuyện [đời] không chấm dứt nơi chiếc gối tọa thiền. Với sự tự do này, chúng ta sống đời sống hàng ngày bằng một thái độ khác. Và như thế, đương nhiên trong bài viết tiếp, chúng ta sẽ nhận định về đạo đức.
Nguyên tác: Stilstaan en kijken – Edex Maex
Nguyễn Thanh Hùng dịch