Minh Hạnh
100 họ đầu bảng ở Hòa Lan
Ðể có một hình ảnh tổng thể về những họ ở Hòa Lan, chúng tôi có được 2 năm làm chuẩn: 1947 (cuộc kiểm kê dân số) và 2007 (thiết lập sổ hành chánh cơ bản của thị xã). Trong bài này chúng tôi lấy 100 họ đông dân nhất để xem xét. 100 họ hàng đầu này đã thay đổi ra sao trong 60 năm vừa qua? Loại tên họ nào chúng ta bắt gặp trong đó? Lớp trên của kho tàng họ tộc có bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng nhập cư mạnh mẽ trong những thập niên vừa qua chăng? Ðó là những câu hỏi mà tôi sẽ đi vào chi tiết nơi đây.
Chúng tôi bắt đầu với xác suất thống kê. Năm 1947 Hòa Lan có 9,5 triệu cư dân, năm 2007 con số này đã tăng tới 16,4 triệu, có nghĩa là một mức gia tăng gần 7 triệu = 72,6%.
Năm 1947 người Hòa Lan mang khoảng 125.000 họ khác nhau và năm 2007 con số này là 314.000, số lượng các họ đã tăng hơn gấp đôi.
Một số tên (họ) ta nghe rất gần gũi, bởi vì chúng xuất hiện rất nhiều, và có rất nhiều tên họ có thể chúng ta chưa biết tới bao giờ, bởi vì chỉ có vài gia đình mang nó. Thế nhưng ta có thể nêu ra một điểm nổi bật là 100 họ đông nhất của năm 2007 được hơn 2 triệu người mang, có nghĩa là 12,6% dân số, năm 1947 con số này lên tới 13,6%. Ðiều đó thật là đáng kể khi chỉ có một số nhỏ như vậy lại chiếm một phần lớn trong kho tảng họ. Họ đông nhất vào năm 2007 là De Jong với 86.500 người mang cùng họ và số 100 trong danh sách là họ Verbeek với 9.775 người.
Sự gia tăng rõ rệt số họ so với năm 1947 đương nhiên được gây ra do sự nhập cư khủng khiếp sau chiến tranh, qua đó vô số họ ngoại quốc đã góp phần trong tổng số họ ở Hòa Lan. Người ta có thể thấy sự gia tăng này trong thành phần của top 100 không? Câu trả lời sẽ làm nhiều người ngạc nhiên: không, trong số 100 họ đông nhất người ta chẳng gặp một họ nào có nguồn gốc ngoại quốc. Cả bây giờ lẫn hồi 1947 đều không, dù lúc ấy đã có nhiều họ ngoại quốc, nhất là họ Ðức và Pháp, là coi như là một phần thân thể trong số họ ở Hòa Lan. 100 họ đầu tiên của năm 2007 gần giống y như 100 họ của năm 1947, với vài thay đổi nhỏ ở thứ hạng trong danh sách. Trung bình số người mang những họ này tăng chừng 56% trong khoảng thời gian 60 năm, thí dụ họ Jansen (đứng hàng thứ 2) từ 49.200 lên 75.700 (tăng 54%) và De Leeuw (hạng 99) từ 6.300 lên 10.100 (tăng 61%).
Về sự gia tăng của số người mang cùng họ, có thể nhận thấy sự khác biệt rõ rệt giữa những họ. Như là họ Janssen với 2 chữ s, chiếm đa phần ở vùng Ðông Nam Hòa Lan, tăng 20% so với những họ như Visser, Smit và Meijer, tập trung ở những thành phố lớn thuộc vùng Randstad. Họ Peters cũng gia tăng 66%, hơn hẳn mức trung bình. Họ này gặp nhiều ở vùng Gelderland và ở vùng đó họ này đứng hàng thứ 3, sau họ Jansen và Janssen. Nhưng họ Van Leeuwen, với sự gia tăng 62% cũng lớn mạnh nhiều, đa phần lại thấy ở vùng Randstad. Từ đó cho thấy rõ ràng là chúng ta phải cẩn thận trong việc lấy sự gia tăng khác nhau trong số tên họ đem gắn vào sự khác biệt của từng vùng, hay sự khác biệt giữa quê và tỉnh.
Cuộc nghiên cứu về sự khác biệt trong tần suất xuất hiện của tên họ còn trong giai đoạn phôi thai và chúng tôi chưa thể đưa ra một giải thích khoa học nào cho chuyện này. Cuộc khảo cứu đó cố nhiên còn tập trung vào câu hỏi rắc rối là tại sao có những gia đình mang một họ nào đó, nếu tính trung bình, lại lớn hơn hay nhỏ hơn những gia đình mang họ khác. Ðể trả lời cho câu hỏi này ta phải so sánh nhiều thông số về văn hóa và xã hội với nhau. Tuy nhiên người ta có thể tin rằng tôn giáo đóng một vai trò quan trọng.
100 họ đầu tiên được xếp vào trong những nhóm nào? Họ đứng đầu De Jong được coi như là một cái tên tục (tên thường gọi) để phân biệt một người trẻ trong gia đình với một người lớn tuổi hơn mang cùng một tên, đó là người cha hay có thể là ông chú ông bác, hay là ngay cả một người anh do bởi quy luật đặt tên khắt khe của giòng họ mà phải mang cùng một tên gọi. Một thí dụ là Cornelis Cornelisz. de Jong(e) là con trai của ông Cornelis Cornelisz. nào đó. Ðặc biệt là ở tỉnh Friesland và Zuid Holland, từ sự bó buộc thêm tên theo dòng họ này mà nó sản sinh ra một họ mới vĩnh viễn. Ở hạng thứ 52 ta thấy một biến ngữ của vùng Zeeland: De Jonge, họ này cũng xuất hiện nhiều ở tỉnh Groningen và Drenthe hơn là họ De Jong ở những nơi đó.
Hai họ được xếp cùng một loại này là họ Post (đứng hạng thứ 55) và Postma (hạng thứ 62). Những họ này có thể gợi ta nhớ đến sự mồ côi trong bụng mẹ, có nghĩa là đứa trẻ được sinh ra sau khi người cha qua đời. Nhưng ở đây cũng phải ghi thêm là họ Post, và có thể cả Postma nữa, cạnh đó có thể đã là tên của một bác bưu tá (người phụ trách việc chuyển thư từ, tin tức, bưu kiện... – chú thích của người dịch).
Top 100 ngoài ra có thêm một số tên ‘đặt thêm’ thuộc loại họ phụ dùng để chỉ một đặc tính ngoại hình. De Groot (đứng hạng thứ 13), De Wit (21), De Bruijn (34), De Bruin (35), Groen (67), De Lange (75) (*). Họ mang tên nghề nghiệp đại diện cho một số đông hơn. Trong số này có 25 họ: Bakker (đứng hàng thứ 6), Visser (8), Smit (9), Meijer (10), De Boer (11), Mulder (12), Dekker (19), Brouwer (20), Smits (23), Kok (27), Schouten (37), Koster (45), Huisman (50), Kuipers (53), Post (55), Kuiper (56), Kramer (58), Scholten (60), De Ruiter (65), Timmermans (66), Boer (71), Smeets (74), Schipper (79), Kuijpers (96), Molenaar (97) (**).
Còn có vài họ nữa có thể cho vào chuỗi trên đây, nhưng động lực của sự đặt những tên này coi vậy mà lại khác hơn là để chỉ định một nghề hay một chức vụ. Đó là nói về 5 họ sau đây: De Graaf (đứng hàng 24), Prins (4), Jonker (69), De Koning (80), Koning (82). Người nào được mang họ này không phải là Bá tước, Hoàng tử, Công tử hay Vua chúa gì, mà là thí dụ có lúc họ ở một ngôi nhà hay quán trọ mà 'ở đó có treo hình ông bá tước Maurits' (ở Oegstgeest năm 1650) hay ngôi nhà có mang tên Vua Dân Đan Mạch, hay Ba Vua, hay Vua David, vân vân… Đó là một trường hợp, bên cạnh đó còn có thể là người mang tên đó là nông phu trên lãnh địa của một vị bá tước. Bởi vì họ của chúng ta (= người Hòa Lan – chú thích của người dịch), trên thực tế đầu tiên là tên tục, ta có thể tưởng tượng ra rằng tên tục này có thể được lấy từ một sự so sánh đặc điểm ngoại hình với một cá nhân nào đó: chúng tôi biết một ông mang tên Dirk Piers, là một người thợ, chẳng là cái thớ gì, có tên tục là De Graaf (ở Jorwerd năm 1750).
Rõ ràng là việc phân nhóm cho những họ tộc không đơn giản chút nào. Không phải là vì có quá nhiều nhóm để cho những họ theo như nghĩa của chúng có thể được xếp vào, mà bởi vì khả năng có thể sắp vào nhiều nhóm khác nhau khi nhiều họ có thể có 2 hay 3 cách diễn giải.
Cùng với 5 họ đã được trình bày trên đây, có một nhóm mang tính đại diện cao nhất: đó là những họ mang tên vị trí địa dư. Nhiều họ tộc còn có mang nhiệm vụ ghi dấu địa chỉ: những họ này cho người ta thấy họ sống ở đâu qua tên đặt cho căn nhà hay nông trại, hoặc là cho thấy người đó có gốc gác ở đâu. Chúng tôi đếm được 48 loại họ này trong số 100 họ đầu bảng. Họ thường thấy nhiều nhất thuộc loại này là De Vries đứng hàng thứ 3 và họ này mang nghĩa: 'một người dân Fries, một người có gốc vùng Friesland'. Đương nhiên là chúng ta bắt gặp trong nhóm họ tộc thường gặp nhất này tên có nguồn gốc từ những đặc tính tổng quát của những thành tố địa dư: những tên được nhiều người thâu nạp từ nhiều nơi chốn khác nhau. Điều đó cũng thấy trong những tên địa dư như Van den Berg (đứng hàng thứ 4), Van Dijk (5), Bos (14), Dijkstra (22) mà tên này do tiếp vĩ ngữ -stra rõ ràng là một tên bằng ngôn ngữ Friesland, Van der Meer (25), Van der Linden (26), Vermeulen (30), Van den Heuvel (31), Van der Veen (32), Van den Broek (33), Van der Heijden (36), Van Beek (38), Van Vliet (40), Van de(r) Ven (41), Hoekstra (42), Verhoeven (44), Van Dam (46), Van der Wal (47), Van Veen (54), Veenstra (57), Van den Brink (59), Van Wijk (61) vân vân… (***). Cũng có thể kể thêm vào đây vài tên thú vật mà lý do chính có thể nêu ra là chúng bắt nguồn từ tên những ngôi nhà: Vos (đứng hàng thứ 15), De Haan (29), Vink (64), De Vos (75), Mol (95) và De Leeuw (99) (****). Nhưng ngược lại những tên này có thể khi trước là tên tục do so sánh với một người diêm dúa như con chồn, hoặc là một người khi đó làm nghề bẫy chim mai hay bắt chuột chũi, thí dụ vậy.
Tên xuất hiện đầu tiên trong danh sách như là một tên địa danh với tiếp đầu ngữ chỉ một nơi đặc biệt là Van Leeuwen, đứng thứ 18. Điều này đúng là một thành quả nổi bật cho một nơi chốn tương đối nhỏ ở vủng Rivierengebied (vùng Trung Hòa Lan, dọc châu thổ sông Rijn [Rhin]. Leeuwen là một làng nhỏ trong vùng này, ở Roermond, sát biên giới Đức – chú thích của người dịch), nhưng mà thực ra nơi quần tụ của họ này nằm xích về hướng Tây một chút. Những tên có gốc địa danh khác trong số 100 họ đông nhất là những tên Van Loon (đứng hàng thứ 70), Van Dongen (78), và Van Doorn (85). Sau nhóm họ có nguồn từ địa chỉ và nơi chốn là nhóm họ được diễn dịch từ tên thụy (tên gọi của người cha) mà ra. Bởi vì tên gọi Jan có từ tên thánh Johannes là tên Hòa Lan được ưa chuộng, tên Jansen (= Janzoon: con trai Jan) đứng hạng nhì trong số những tên loại này ta thường gặp nhất, tiếp theo là Janssen, hàng thứ 7 (= Janszoon: con trai của Jan). Những tên thụy khác là Peters (160, Hendriks (17), Jacobs (28), Willems (39), Maas (43, từ tên thánh Thomas), Blom (49, từ Bommert, Bloemaart), Peeters (51), Martens (63), Gerritsen (68), Willemsen (73), Driessen (84), Hermans (86), Evers (87), Wolters (92) và Sanders (93).
Để chấm dứt tôi có thể kết luận là sự gia tăng dân số khổng lồ do thừa sinh (số sinh cao hơn số tử – chú thích của người dịch) và sự nhập cư – là 72,6% trong khoảng thời gian 1947 - 2007 – đã không có ảnh hưởng đến thành phần của tầng đầu trong bảng xếp hạng họ tộc. Con số người trong cùng một họ tăng trung bình 56% xác định là đã có sự phân hóa hơn trong kho tàng những tên họ tộc. Ở 10.000 họ lớn nhất, số phần trăm này cũng thấp hơn (60%), bởi vì dưới số 10.000 họ này có nhiều họ mới, với sự gia tăng đáng kể, đã có ảnh hưởng đến con số trung bình. 5 tên mới được ghi nhận cao nhất trong năm 2007 là những tên Yilmaz (đứng hàng 291), Nguyen (322), Ali (526), Mohamed (549) và Ahmed (557).
Origineel: De top 100 van de familienamen in Nederland – Leendert Brouwer – Meertens Instituut, Amsterdam.
Người dịch: Minh Hạnh.
Ảnh: Trích từ 'Ngân hàng Họ tộc Hòa Lan' (Nederlandse Familienamenbank), www.meertens.knaw.nl.nfb.
___________
Chú thích của người dịch:
(*) Groot: To cao, Wit: (Màu) trắng, Bruijn/Bruin: (Màu) nâu, Groen: (Màu) xanh lục, Lang: Cao.
(**) Bakker: Thợ lò bánh mì, Visser: Ngư phủ/Ông lưới cá, Smit/Smeet: Thợ rèn, Meijer: Người cho vay tiền, Boer/Huisman: Nông phu, Mulder/Molenaar: Chủ nhà máy xay, Dekker: Thợ lợp mái nhà, Brouwer: Chủ lò rượu, Kok: Đầu bếp, Schouten/Scholten: Ông cò, Koster: Thầy quản nhà thờ, Kuijper/Kuiper: Thợ đóng thùng ton-nô, Post(bode): Ông phát thư, bưu tá, Kramer: Ông bán hàng trong sạp ngoài chợ, Ruiter: Kỵ sĩ, Timmerman: Thợ xây nhà (xưa), thợ mộc, Schipper: Thuyền trưởng tàu nhỏ đường sông.
(***) Berg: Ngọn núi, Dijk: Con đê, Bos: Cánh rừng, Meer: Cái hồ, Linden: Cây 'Linde', cây gia, (Ver)meulen: Cối xay, nhà máy xay, Heuvel: Con dốc, Veen: Than bùn, Broek: Cánh đồng lầy, Heijden: Cánh đồng hoang, Beek: Con suối, Vliet; Con lạch, Ven: Ao trong đồng, Hoek: Thửa đất, (Ver)hoeven: Nông trại, Dam: Con đập ngăn nước, Wal: Bức tường thành, bờ kè, Brink: Sân làng, Wijk: Khu xóm.
(****) Vos: Con chồn, Haan: Con gà trống, Vink: Con chim mai, Mol: Con chuột chũi, Leeuw: Con sư tử đực.
Xem bài 'Tên họ người Việt' để biết thêm nguồn gốc và ý nghĩa các họ ở Việt Nam