Trọng Nghĩa


Nước Pháp vinh danh nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận

 

 

Ngày 06/06/2012, ti Paris, Hc vin Pháp Quc Institut de France t chc l trao các gii thưởng ln thường niên ca mình, trong các lãnh vc y tế, khoa hc, văn hóa, kho c… Đc bit năm nay, một trong nhng gii này mang tên Prix mondial Cino del Duca – Gii thưởng Thế gii ca Fondation Simone et Cino del Duca – ln đu tiên được trao tng cho mt người Vit : Giáo sư vt lý thiên văn Trnh Xuân Thun – Đi hc Virginia Hoa Kỳ. Đim đc đáo là Giáo sư Thun được vinh danh trong hai tư cách nhà khoa hc và nhà văn.

 

 

 

 

Cino del Duca– trị giá 300.000 euro – là nhằm khen thưởng “mt tác gi Pháp hoc ngoi quc mà công trình, dù thuc lãnh vực văn hc hay khoa hc, hàm cha mt thông đip ca tinh thn nhân văn hin đại.

Chính trong tinh thần đó, mà Học viện Pháp Quốc đã “quyết đnh trao Gii Thế gii năm 2012 cho Giáo sư Trnh Xuân Thun, mt nhà vt lý thiên văn và nhà văn, v công trình ph biến khoa hc ca ông bằng tiếng Pháp, mt ngôn ng mà bn thân ông rt trân trng”.

 

Được các viện sĩ hàn lâm Pháp vinh danh

Nói rằng Giáo sư Trịnh Xuân Thuận được Pháp vinh danh không ngoa chút nào vì Institut de France là biểu tượng của tinh hoa, trí tuệ nước Pháp hiện nay, nơi tập hợp tất cả những nhân vật đầu đàn trong các lãnh vực, thường được mệnh danh là “Ngh vin ca các nhà bác hc” Pháp.

Được hình thành từ năm 1795, Institut de France bao gồm 5 viện hàn lâm khác nhau của Pháp. Nổi tiếng nhất và lâu đời nhất là Viện Hàn lâm Pháp – Académie française, thành lập năm 1635, tập hợp các viện sĩ xuất thân từ nhiều ngành. Kế đến là các viện chuyên biệt hơn: Viện Hàn lâm Văn chương – Académie des inscriptions et belles-lettres, thành lập năm 1663, hiện chuyên trách lãnh vực ngữ văn và lịch sử ; Viện Hàn lâm Khoa học – Académie des sciences, thành lập năm 1666; Viện Hàn lâm Khoa học Đạo đức và Chính trị – Académie des sciences morales et politiques, thành lập năm 1795; và Viện Hàn lâm Mỹ thuật – Académie des beaux-arts, thành lập năm 1816.

Nhiệm vụ chính của Institut de France là góp phần một cách vô vị lợi vào việc trau giồi và phát huy văn học, nghệ thuật và khoa học. Trong tinh thần đó, về mặt hành chánh, có rất nhiều Hiệp hội (Fondation) hoạt động trong khuôn khổ của Học viện Pháp Quốc, chuyên trao tặng các phần thưởng hay cấp phát các khoản tài trợ để phục vụ cho mục tiêu kể trên.

Việc tuyển chọn những người nhận các loại giải thưởng hay trợ cấp nói trên luôn luôn được thực hiện với sự cố vấn của Institut de France, do đó đã được bảo đảm về mặt chuyên môn, và giá trị luôn luôn được công nhận.

Trong trường hợp Giải Thưởng Thế giới Cino del Duca năm nay, Học viện Pháp Quốc cho biết là ban giám khảo  gồm 14 viện sĩ hàn lâm, mà chủ tịch là bà Hélène Carrère d’Encausse, Thư ký Vĩnh viễn hiện nay của Viện Hàn lâm Pháp (Académie française). Các giám khảo còn lại gồm 7 thành viên Viện Hàn lâm Pháp, 3 thành viên Viện Hàn lâm Khoa học, 2 người thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Đạo đức và Chính trị, và 1 người của Viện Hàn lâm Văn chương.

 

Sánh vai cùng những tên tuổi từ Sakharov, Havel cho đến Mario Vargas Llosa, Jorge Luis Borges

Về bản chất Giải thưởng Thế giới Cino del Duca là một giải văn học, vì mỗi năm Fondation Simone et Cino del Duca còn có riêng hai giải khác Giải Khoa học (Prix scientifique) và Giải Khảo cổ học (Prix d’archéologie).

Từ năm 2005 đến nay, tức là từ ngày Institut de France được Fondation Simone et Cino del Duca cho toàn quyền tuyển chọn người được trao giải Thế giới Cino del Duca, đây là lần đầu tiên mà định chế này quyết định tặng thưởng một nhà khoa học viết văn, chứ không phải là một nhà văn thuần túy.

Trong danh sách những người từng được trao Giải thưởng Thế giới Cino del Duca – từ khi giải này được thành lập năm 1970 – ngoài những tên tuổi trên văn đàn Pháp hay thế giới, còn có những nhân vật xuất chúng trong những địa hạt khác. Chẳng hạn như nhà nghiên cứu vật lý hạt nhân người Nga Andrei Sakharov – cha đẻ của quả bom khinh khí (bom H) của Liên Xô, nhưng cũng là một chiến sĩ đấu tranh cho nhân quyền tại nước này – được giải Cino del Duca năm 1974, và năm sau được trao tặng Nobel Hòa bình, hay là Vaclav Havel, tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Séc, một nhà biên kịch tài ba, đồng tác giả của bản Hiến chương 77, biểu tượng của cuộc đấu tranh chống lại thể chế độc tài Tiệp Khắc. Vaclav Havel đã được trao giải Cino del Duca năm 1997.

Một số tên tuổi văn học lớn cũng đã được giải Cino del Duca vinh danh như nhà văn Tiệp Khắc Milan Kundera (2009), nhà văn Albanie Ismail Kadaré (1992), nhà văn Mêhicô Jorge Luis Borges (1980). Nổi bật trong số này là văn hào người Péru, Mario Vargas Llosa, đã được giải Cino del Duca năm 2008, và hai năm sau đó thì được giải Nobel Văn học (2010).

Trong bảng vàng giải thưởng Cino del Duca, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận là người Việt đầu tiên, nhưng lại là người châu Á thứ hai. Trước ông, đã có giáo sư y khoa Trung Quốc Vương Chấn Nghị, được giải thưởng vào năm 1998.

 

Trịnh Xuân Thuận: tác giả Pháp ngữ

Sinh ra tại Hà Nội (Việt Nam) vào năm 1948, Giáo sư Thuận đã theo gia đình vào năm và theo học chương trình Pháp ở trường trung học Jean-Jacques Rousseau ở Sài Gòn (hiện đã đổi tên thành trường Lê Quý Đôn). Sau khi đậu bằng Tú tài (tức là tốt nghiệp phổ thông) năm 1966, ông qua Thụy Sĩ học kỹ sư ở Lausanne, nhưng chỉ một năm sau thì ông quyết định thực hiện ước mơ của mình : theo học ngành vật lý thiên văn tại Viện Công nghệ California, rồi tại đại học Princeton, bang New Jersey, cạnh New York.

Sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ tại Princeton, ông bắt đầu giảng dạy ở Đại học Virginia từ năm 1976, và đã dần dần trở thành một chuyên gia nổi tiếng thế giới về ngành thiên văn học ngoài dải Ngân hà. Ông là người đã phát hiện ra thiên hà trẻ nhất được biết đến trong vũ trụ hiện nay, nhờ việc nghiên cứu các quan sát do kính viễn vọng không gian Hubble thực hiện. Đó là thiên hà I Zwicky 18.

Đối với quảng đại quần chúng, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận được biết đến qua các công trình phổ cập kiến thức khoa học về vũ trụ viết bằng tiếng Pháp. Từ năm 1988 – tức là năm ra mắt quyển sách đầu tiên của ông với tựa đề La Mélodie secrète / Giai điu bí n – cho đến nay, Giáo sư Thuận đã cho ra mắt hơn một chục tác phẩm, mà quyển sau cùng là Le Cosmos et le Lotus / Vũ trụ và Hoa sen, xuất bản năm 2011, vừa được trao giải Louis Pauwels 2012.

Theo Học viện Pháp Quốc, các tác phẩm của ông thể hiện “mt cái nhìn phc hp và tinh tế ca mt nhà khoa hc và mt người có đc tin v vũ tr và v trí ca con người trong vũ tr”, nhưng thông qua một ngôn ngữ dành cho một công chúng rộng rãi.

Nhận xét về công trình phổ cập khoa học của Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, Institut de France ghi nhận là ông đã thành công xuất sắc trong việc : “Giúp qung đi qun chúng thy được tính cht huy hoàng gn như là siêu thc ca vũ tr bng mt ngôn ngđơn gin và d tiếp cn”.

Học viện Pháp Quốc cũng trân trọng mục tiêu mà Giáo sư Thuận đề ra là giúp người thường hiểu được những yếu tố “cao siêu và khó hiu nht” của thế giới quanh ta, thông qua những suy tư mang tính triết học và thần học. Theo Institut de France : “Nh tính đc đáo ca công trình ông thc hin, cũng như ca s mnh ông đ ra, Trnh Xuân Thun đã hướng ti nhng con người bình d, ham hiu biết nhưng không có kiến thc khoa hc, sao cho lch s ca vũ tr tr nên d hiu đi vi vi chúng ta, hu du ca các vì sao.

 

Từ giải Kalinga (UNESCO) đến giải Cino del Duca (Institut de France)

Các nỗ lực phổ cập khoa học của Giáo sư Trịnh Xuân Thuận từng được thế giới tôn vinh với Giải thưởng Kalinga do tổ chức văn hóa, giáo dục Liên Hiệp Quốc UNESCO trao tặng vào năm 2009.

Một số tác phẩm của ông cũng đã được trao giải. Ngoài tác phẩm mới nhất – Le Cosmos et le lotus /Vũ trụ và Hoa sen (2011), được giải Louis Pauwels 2012, quyển Les Voies de la lumière : physique et métaphysique du Clair-Obscur / Những con đường của ánh sáng (2007) từng được Giải thưởng lớn Moron năm 2007 của Viện Hàn lâm Pháp (Grand Prix Moron de l'Académie Française).

Trước đó, công trình L’Infini dans la paume de la main : du Big Bang à l’Éveil / Cái vô hn trong lòng bàn tay : T Big Bang đến giác ng (2000), cũng đoạt giải Văn học Châu Á 2000 (Prix Littéraire de l’Asie 2000) của Hiệp hội các Nhà văn Pháp ngữ (Association des Ecrivains de langue française).

***

Nhân dịp đến Pháp nhận Giải thưởng Thế giới Cino del Duca, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã dành cho ban Việt ngữ RFI một bài phỏng vấn trong đó ông nói rõ thêm về ý nghĩa quan trọng của giải Cino del Duca của Institut de France đối với ông, về động lực thúc đẩy ông lao vào công việc phổ biến khoa học. Giáo sư Thuận cũng khuyên các bạn trẻ rèn luyện ý chí, theo đuổi đến nơi đến chốn con đường mình đã chọn.

RFI : Kính chào giáo sư Trịnh Xuân Thuận. Trước hết RFI xin cảm ơn giáo sư đã dành cho chúng tôi một bài phỏng vấn vào hôm nay. Được biết là vào ngày 6/6 tới đây thì hội Fondation Simone et Cino del Duca cùng với Institut de France, tức là Học viện Pháp quốc, sẽ trao tặng cho giáo sư một giải thưởng lớn. Đó là Prix mondial 2012, một giải trước đây từng được trao cho nhiều nhân vật tên tuổi, chẳng hạn như Milan Kundera, Andrei Sakharov hay là Vaclav Havel. Giáo sư từng nhận được rất nhiều giải thưởng, như vậy giải Cino del Duca của Institut de France mang ý nghĩa như thế nào đối với giáo sư ?

GS Trnh Xuân Thun: Mt ý nghĩa rt ln ! Trước hết tôi mun cám ơn Hc vin Pháp quc đã cho tôi mt gii thưởng uy tín như vy ; vì như anh đã nói, nhng người mà tôi ngưỡng m như Luis Borges hoc là Mario Vargas Llosa, Milan Kundera hay là Andrei Sakharov, đu đã được gii thưởng đó.

Nhưng điu làm tôi thú v là tt c các công trình ph biến khoa hc ca tôi đãđược Hàn lâm vin Pháp nhìn nhn. Tôi rt hãnh din v vic đó, vì tôi đã b ra rt nhiu thi gian ca tôi. Ngoài vic dy hc đi hc Virginia và làm kho cu trong vt lý thiên văn, tôi dành rt nhiu thi gi đ viết sách, đ ph biến nhng tin tc khoa hc cho qung đi qun chúng.

RFI : Như giáo sư vừa nói, là giáo sư đã bỏ rất nhiều thì giờ để làm công việc phổ cập khoa học, và giáo sư được quần chúng biết đến nhiều qua các công trình đó. Từ quyển đầu tiên là Mélodie secrète (Giai điệu bí ẩn) xuất bản năm 1988, cho đến quyển mới đây là Le cosmos et le lotus, tạm dịch là Vũ trụ và hoa sen phát hành vào năm ngoái. Xin hỏi giáo sư là động lực nào đã thúc đẩy giáo sư viết nhiều như vậy ?

Tôi mun viết như vy đ không nhng bày t vi mi người cái sc đp và cái hài hòa ca vũ tr, ca thiên nhiên, và cái sáng to ca thiên nhiên, mà có rt nhiu chuyn hay. Như lý thuyết Big Bang chẳng hn, hay lý thuyết v các l đen, là khi các ngôi sao chết đi, các thiên hà…Nhưng tôi còn đý đến nhng ý nghĩa triết lý và tôn giáo mà khoa hc có th mang đến na.

Ti vì đi vi tôi vt lý thiên văn không phi ch đ nhìn vũ tr không thôi, nhưng nó còn làm cho chúng ta thay đi cách nhìn ca mình trong vũ tr. Như t năm 1543 ông Nicolas Copernic đã bo là, con người không phi là trung tâm ca vũ tr na. Chính ra trái đt ch là mt hành tinh xung quanh mt tri. Mt tri ca mình cũng không có gì làđc bit, mà ch mt trong c trăm t ngôi sao trong thiên hà. Và thiên hà ca mình cũng không có gì đc bit, ch là mt trong c trăm t thiên hà trong vũ tr.

Thành ra con người ngày càng nh bé đi, c trong thi gian và không gian. Nhưng li có mt chuyn rt hay là, khoa hc đã tìm ra được là con người rt có liên h vi vũ tr. Tc là tt c nhng gì như thiên hà, ngôi saođu liên h đến mình, vì mình là con cháu ca ngôi sao. Nếu mà không có các ngôi sao thì mình không có đây, vì tt c nhng sinh t mà con người mình to ra – đi sng và trí tuđều là làm trong lòng ca các vì sao. Mình có cái liên h rt đc bit.

Tt c nhng ý nghĩa triết lý và tôn giáo đó tôi cũng mun bày t cho qung đi qun chúng luôn. Vì nhng câu hi mà mt người làm khoa hc, nht là mt nhà khoa hc v vt lý thiên văn hin gi đt ra, rt ging nhng câu hi ca các nhà triết lý hoc nhà tôn giáo.

Đó là ti sao vũ tr li sinh ra, mình đâu ti, và mình đi ti đâu Nhng câu rt là sâu sc mà nhà khoa hc hi hin gi, thành ra tôi mun chia s vi qun chúng nhng câu hi đó, và nhng câu tr li mà tôi nghĩ có thđưa ra.

RFI : Thưa giáo sư, như thế nếu phải chọn một tác phẩm tâm đắc nhất, thì phải chọn quyển nào ? Vì lúc nãy giáo sư nói, từ quyển sách phổ cập khoa học đầu tiên là Giai điệu bí ẩn xuất bản năm 1988, cho tới quyển sau cùng là Le Cosmos et le Lotus (Vũ trụ và Hoa sen) thì có rất nhiều tác phẩm khác ?

Tôi thì…tht ra nhng cun sách cũng như nhng người con ca tôi, khó mà chn được người nào mình thích hơn, đúng không ? Nhưng nếu tôi ch có mt hay hai cun phi nói, thì cun đu tiên bao gi tôi cũng rt yêu. Ti vì cun đó làm cho tôi được công chúng trên thế gii biết đến, đó là cun Giai điu bín.

Còn cun th nhì mà tôi cũng rt thích là cun mà tôi viết cùng vi nhà sư Pht giáo Matthieu Ricard người Pháp, nói v các liên h gia khoa hc hin đi và đo Pht. Cun sau cùng ca tôi nói v tt c nhng cái mà tôi đã phi đi qua, tc là con đường – không ch v con đường khoa hc ,mà còn là con đường v trí tu ca tôi. Nếu mà phi nêu ra mt hai cun, thìđó là nhng cun trên.

RFI : Có th nói giáo sư là mt tm gương trong hc tp, nghiên cu và ph cp khoa hc. Giáo sư có li khuyên gìđi vi các bn tr, đc bit là bn tr Vit Nam trong nước và ngoi quc ?

Tôi nghĩ, li khuyên ca tôi là phi sng mt cuc đi hu ích cho xã hi và thế gii. Tc là không ch nghĩ đến mình, nhưng như đc Pht nói, mình có liên h vi mi người ; và khoa hc nói, là liên h vi c vũ tr. Thành ra mình phi sng mt cuc đi hu ích, tc là phi ráng đt mt mc đích rõ ràng ngay tđu.

Lúc tôi 18 tui, tôi đã biết là tôi mun thành nhà khoa hc ri. Và phi có ý chí – ý chí đi đến cùng. Vì con đường bao gi cũng nhiu khó khăn tr ngi, nhưng nếu mình cóý chí, thì mình s vượt qua được nhng khó khăn và đt được mc đích ca mình. Lúc đó, nếu mình làm mt cái gì trong đi mình mà hu ích, cái gì mà mình tht s thích vì mình đã chn la, thì mình mi leo lên tt đnh được. Ch nếu làm cái gì mà mình không thích, phi ép vào mà làm, thì không th leo lên đnh núi được.

Tháng chp va qua tôi đi Vit Nam, mt tháng ti đó. Tôi cũng gp nhiu sinh viên, mà mi hai ngày li có mt bài din thuyết các đi hc t Bc xung Nam, t Hà Ni đến Thành ph H Chí Minh. Tôi thy là các hc sinh sinh viên rt là ham mê vt lý thiên văn, thành ra tôi cũng mong là mt ngày kia ngành vt lý thiên văn sđược phát trin.

Vit Nam hin gi, nước ta không có nhng cái đó vì không có nhng dng c như nhng kính thiên văn ln, hoc nhng kính thiên văn trên không gian như là Hubble, nên khó mà làm vic đến mc tt đ được như ngoi quc.

Nhưng tôi mong là các lãnh đo s chăm chú vào vic phát trin nn giáo dc nước ta và cp phương tin cho nhng nhà kho cu đ làm vic. Tc là đ tư duy thôi, ch không phi lo đi làm nhng vic khác ngoài vic kho cu đ kiếm tin na.

Giáo dc rt là cn thiết. Tôi mong là ri mt ngày kia ngành vt lý thiên văn cũng s bành trướng trong nước ta.

RFI : RFI Việt ngữ xin thành thật cảm ơn giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã dành cho chúng tôi bài phỏng vấn hôm nay.

 

Trọng Nghĩa
Trích từ RFI, 04/06/2012

 


Cái Đình - 2012