TS. Trần Ðăng Hồng
Thủy lợi: Kinh nghiệm Hòa Lan
Vấn đề giải quyết lụt lội và thủy lợi ở đồng bằng Cửu Long đã được tranh luận rất nhiều. Tựu trung ở Việt Nam có 2 khuynh hướng, một là sống chung với lũ, hai là trị thủy chống lũ lụt.
Ðể có một tầm nhìn rộng lớn cho vấn đề, chúng ta hãy nhìn những kinh nghiệm về vấn đề này ở trên thế giới và ngay tại Việt Nam.
“Thượng đế tạo ra thế giới, ngưới Dutch tạo ra nước Hòa Lan”. Ðó là câu nói của người Hòa Lan để tự hào về những công trình chống lụt của họ.
Khoảng 27% lãnh thổ Hòa Lan hiện nay thấp hơn mực nước biển trung bình 3m, có chỗ thấp 7m như ở Prince Alexander Polder. Khoảng 60% của toàn dân số 16 triệu sinh sống trên vùng đất thấp này. Ngài ra, vào mùa lụt 70% đất đai sẽ bị ngập lụt do nước lũ từ các sông tràn ngập nếu hiện nay không có hệ thống đê dọc theo sông và phụ lưu.
Từ ngữ Netherlands – tiếng Dutch là Nederlanden – có nghĩa là vùng đất thấp (Pays Bas). Vùng đất phía Bắc và Tây lãnh thổ thấp hơn mực nước biển, nên được gọi là vùng Hạ Hòa Lan (Low Netherlands), gồm sét và than bùn (peat), chằng chịt với các hệ thống kinh đào, sông và phá (vụng biển). Phần đất phía Nam và Ðông là vùng đất cao – vùng Thượng Hòa Lan (High Netherlands) – cao hơn mặt biển, tương đối bằng phẳng hay có đồi nhỏ, nhưng cao độ không quá 50m, ngoại trừ ở vùng Ðông Bắc có nơi cao 107m, và vùng cao nhất là Vaalserberg (321m) ở biên giới với Belgium.
Sông chính là sông Rhine chảy từ Ðức, với nhiều phụ lưu trên đất nước Hòa Lan, như IJssel, Waal và Lek. Phụ lưu Maas, một nhánh của sông Meuse và Schelde chảy đến Belgium. Các sông và phụ lưu này tạo một hệ thống sông ngòi chằng chịt chạy từ đông sang tây, và khi ra tới Biển Bắc (North Sea) tạo thành tam-giác-châu (delta) với vô số đảo nhỏ ở phía Tây Nam, hay chảy vào biển Waddenzee qua biển nội địa Zuiderzee. Nhờ các cổng-điều-chế-nước, cống-thoát-nước (sluicea) và phong quạt (windmills) là những phong cảnh tiêu biểu của vùng Hạ Hòa Lan. Những công trình trị thủy này được Hiệp Hội Công Chánh Hoa Kỳ (American Society of Civil Engineerings) đánh giá là 1 trong 7 kỳ quan của thế giới hiện đại.
Lãnh thổ Hòa Lan càng ngày càng được mở rộng, không phải đi xâm chiếm nước láng giềng (Ðức và Belgium) mà là lấn ra biển. Trong vòng 1000 năm nay, lãnh thổ gia tăng thêm 1/5 diện tích. Người dân Hòa Lan đã phải tranh đấu với thiên nhiên, biển cả để tạo nên đất nước xinh đẹp và phồn vinh ngày nay.
Cách đây trên 2000 năm, người Frisians đến vùng này định cư và bắt đầu xây các “terpens” trên các đụn cát dọc biển, tức các đê biển đầu tiên, để chận nước biển, và biến biển thành đồng bằng. Trong các thế kỷ sau các nhà tu (monks) tiếp tục làm đê, đào kinh lấn biển.
Nguyên thủy, vùng duyên hải Biển Bắc của Hòa Lan gồm các đụn cát (dunes). Ở phía Tây Nam, các đụn đất này bị các cửa sông cắt xén thành lập các tam-giác-châu với chằng chịt sông ngòi, lạch nước. Ở phía Tây Bắc, các rạch nước biển xen kẽ với các đụn cát tạo thành dãy đảo West Frisian Islands, và bên trong dãy đảo này là một biển cạn – biển Waddenzee. Vùng này có thủy triều mạnh và gió bão, biển xâm thực mạnh nên các công trình đê và bờ biển trên các dãy đảo này dễ bị phá hủy. Chính vùng bên trong của biển Waddenzee này là biển nội địa Zuiderzee (Biển Nam), có sông IJssel, một phụ lưu của sông Rhine, chảy đến, là vùng được người Hòa Lan cải tạo trước tiên. Ðây là một quá trình cải tạo kéo dài trên 2000 năm và vẫn còn tiếp tục.
Như vậy, Zuiderzee nguyên thủy là một biển nằm trong nội địa ăn thông với biển Waddenzee, có kích thước 100km dài và 50km rộng, diện tích khoảng 5.000km2, nước sâu 4 - 5m, với tổng cộng bờ biển khoảng 300km. Bên trong biển có 4 đảo nhõ là Wieringen, Urk, Schokland và Marken. Từ nguyên thủy cách đây trên 2000 năm, các đê biển được xây dựng ven bờ biẻn nội địa Zuiderzee để chận bão lụt tràn vào đất liền. Rồi với thời gian, nhiều đê được xây thêm, lấn ra ngoài biển để thêm đất thổ cư và nông nghiệp.
Ngày 14/12/1287, một trận lụt lớn phá vỡ đê biển, giết khoảng từ 50.000 đến 80.000 người, và vì đất thấp hơn mặt biển, trận lụt kéo dài tới mấy chục năm cho tới khi tái tạo đưọc hệ thống đê mới kiên cố hơn. Hàng năm, dân Hòa Lan tiếp tục củng cố lại hệ thống đê điều, xây thêm đê biển mới để biến vùng quanh vịnh thành vùng nông nghiệp, rộng lớn hơn và vững chắc hơn. Cũng nhờ trận lụt này, mà Amsterdam, từ một làng đánh cá có đê cao và vững chắc bao quanh, trở thành một hải cảng sấm uất thông thương với thế giới. Trong các thế kỷ tiếp theo, vì bão tố thường xuyên, nước biển đe dọa phá vỡ đê biển, nên ngoài việc củng cố đê cũ, các đê mới lần lượt tạo ở bên ngoài, tiến dần ra biển, và một phần biển biến thành các polders. Tuy vậy, trận lụt ngày 18/11/1421, đê biển lại bị vỡ, 72 làng bị ngập và 10.000 người chết.
Các đê biển kiên cố tiếp tục xây và lấn ra biển cả, nhưng chưa được quy hoạch toàn bộ. Mãi tới thế kỷ 20, Hòa Lan mới thật sự quy hoạch phòng thủ biển cả, chống lụt do biển và sông gây ra.
Năm 1916, một trận lụt kinh hoàng xảy ra, chính phủ Hòa Lan phải xét lại kỹ thuật, quy hoạch lại toàn diện chương trình trị thủy, và quyết tâm thực hiện đề án biến biển vùng Biển Nam Zuiderzee thành đồng bằng an toàn với 5 polders rộng lớn, gọi là công trình Zuiderzeewerken do Cornelis Lely (1854-1929) chủ quản.
Ngày 01/02/1953, thủy triều lớn cộng với bão mạnh ở Biển Bắc làm nước biển tràn qua đê làm 162.000ha bị ngập lụt, và giết chết 1800 người, 47.000 nhà bị phá hủy. Vì vậy, Hòa Lan thực hiện đại công trình thứ 2, ở vùng tam-giác-châu phía nam, mang tên Deltawerken (Delta Works).
Từ ngàn xưa, để đối phó với sóng biển, thủy triều lớn trong mùa bão, đê biển được xây rất cao, kiên cố, và thường có nhiều đê, đê này sau đê kia, hễ nước biển tràn qua đê này thì còn đê kia ngăn cản. Ðê bên ngoài biển gọi là “đê bảo vệ” (wakende dijk – guarding dyke), kế tiếp là “đê ngủ”(slappende dijk – sleeping dyke), và đê trong cùng là “đê mơ” (dromende dijken – dreaming dykes).
Ðại công trình Zuiderzeewerken (Zuiderzee Works)
Ðại công trình kéo dài từ 1919 và hoàn thành năm 1986, với sự thành lập tỉnh mới Flevoland. Mục tiêu chánh của công trình này là bảo đảm chống lụt gây bởi Biển Bắc và tạo thêm đất nông nghiệp trong vùng biển nội địa Zuiderzee. Thay vì củng cố lại các đê cũ bao quanh biển nội địa Zuiderzee dài hơn 300km, công trình chính quan trọng nhất là thiết lập một đê biển dài 32km, nối liền 2 bờ của Zuiderzee, cách ly với biển Waddenzee, và biến biển Zuiderzee thành một hồ nước ngọt vĩ đại – hồ IJsselmeer, rồi sau đó từ từ biến một phần hồ thành các polders.
Xây đê Afsluitdijk
Mục đích là tách rời biển Zuiderzee với biển Waddenzee của Biển Bắc bằng một đê biển kiên cố, và biến Zuiderzee thành một hồ nước ngọt vĩ đại mang tên hồ IJsselmeer.
Ðể rút tỉa kinh nghiệm, một đê ngắn Amsteldiepdijk chỉ dài 2,5km, nối đảo Wieringen với nội địa được xây cất trước. Phải mất 4 năm (1920-1924), đê nhỏ này mới hoàn thành, nhưng nhờ đó học được nhiều kinh nghiệm và phát minh nhiều kỹ thuật thích ứng.
Với kinh nghiệm này, công trình xây đê Afsluitdijk mới bắt đầu năm 1927 và hoàn thành năm 1932. Ðê dài 32km, rộng 90m, cao trung bình trên mực biển là 7,25m, có chỗ cao tới 19m, độ dốc 25%. Với kinh nghiệm rút tỉa từ đê Amsteldijk, vật liệu xây dựng đê biển tốt nhất lá sét-bẳng-hà (till). Sét-băng-hà là trầm tích lắng tụ ngay dưới đáy biển Zuiderzee ở thời đại băng hà, gồm đá cuội, sét, cát kết chặt thành khối cứng. Dùng máy xáng múc khối sét-băng-hà từ đáy biển Zuiderzee và chở đổ thành 2 hàng song song làm tường đê, rồi dùng tàu chở đá, cát và sét đổ vào giữa 2 bức tường sét-băng-hà. Khi đê cao quá mặt biển thì được phủ một lớp sét-băng-hà dày lên trên. Và đê được tăng cường thêm bằng đá basalt và một thảm cây liễu sống để bảo vệ đáy đê. Trên mặt đê rải 1 lớp cát, và trên cùng là lớp sét và được trồng cỏ. Tổng số vật liệu xây dựng đê Afsluitdijk khoảng 23 triệu m3 cát, 13,5 triệu m3 sét-băng-hà, và trong suốt thời gian xây dựng trung bình hàng ngày có 4000 tới 5000 công nhân. Tổn phí xây dựng đê vĩ đại này khoảng 700 triệu Euro (theo thời giá 2004).
Song song với việc xây dựng đê biển Afsluitdijk, còn phải xây 2 hệ thống ở 2 đầu đê, gồm 2 cổng-điều-chỉnh-nước (locks, để tàu bè di chuyển ra vào), và hệ thống tháo nước gồm 28 cống (sluices). Tiếp theo là xây dựng các polders.
Xây dựng polders
Polders là những vùng đất thấp dưới mực nước biển, lớn nhỏ tùy nơi, nhỏ chừng vài trăm ha, lớn có thể tới 250.000ha, có đê bao ngạn chung quanh để ngăn chận nước biển và nước lụt. Một khi hoàn tất đê bao quanh, hệ thống kinh (canals) bên trong polders được đào để rút nước (nước mưa và nước biển xâm nhập), và nhiều hệ thống bơm nước ra khỏi polders để làm đất khô, và sau một thời gian biến thành đất trồng trọt và thổ cư, làng mạc hay thành phố. Lần lượt các polders được xây dựng, kế tiếp nhau, và tiến ra biển cả. Kể từ thiên niên kỷ 1200, xa gió (windmills) thay thế sức người và sức thú vật để bơm nước ngày đêm ra khỏi polders. Trong vòng 200 năm nay, máy bơm khổng lồ chạy điện hay diesel được thay thế.
Từ thế kỷ thứ 10, dọc theo biển đã có hệ thống đê biển do người Romans thực hiện, nhưng chưa vững chắc. Người Hòa Lan thật sự xây dựng đê và polders vào thế kỷ 19, đầu tiên với Haarlemmermeer (Hồ Haarlem), gần Amsterdam. Nguyên thủy đây là vùng thấp, than bùn được khai thác làm nhiên liệu và với thời gian trở thành các hồ nước (mặn), các hồ càng ngày càng lớn, và vì bị gió sóng biển mạnh làm xoi mòn bò hồ, có cơ đe dọa Amsterdam. Các kỹ sư Hòa Lan bèn xây một bức tường đất – tức đê – và kinh đào chung quanh hồ, rồi bơm nước từ hồ qua đê đổ vào kinh, và kinh dẫn nước ra sông rồi ra biển. Hồ cạn nước và trở nên khô – polder thành hình, trở thành đất trồng trọt, chăn nuôi, xây cất nhà cửa, đường sá, thành làng mạc hay thành phố. Polder lớn nhất là tỉnh Flevoland với diện tích tổng cộng 2415km2.
Sau khi cách ly được với biển Waddenzee nhờ đê Afsluitdijk, biển Zuiderzee nay trở thành một hồ nước hiền lành, các kỹ sư bắt đầu thiết lập các polders. Cũng vậy, một thí điểm polder được thực hiện trước để rút tỉa kinh nghiệm.
Polder Andijk chỉ rộng 40 ha được làm năm 1926 và hoàn thành 1927 để lấy kinh nghiệm.
Polder Wieringermeer: Polder lớn hơn đầu tiên là Wieringermeer, bắt đầu xây 1927, hoàn thành năm 1929, và được bơm cạn hoàn toàn năm 1930, và bắt đầu canh tác năm 1934. Tổng cộng diện tích polder Wieringermeer là 308km2, diện tích thổ cư và canh tác là 195km2, với dân số sống trong polder là 13.000 người (2007). Việc xây dựng con đê biển dài 18km gặp nhiều khó khăn, vì lúc đó đê Afsluitdijk chưa hoàn thành, nên sóng biển cản trở công việc. Việc bơm nước ra khỏi polder được thực hiện bởi 2 trạm bơm khổng lồ, một chạy bằng diesel, và trạm kia chạy điện, và một hệ thống an toàn bảo đảm máy bơm chạy liên tục, nếu hệ thống này bị hỏng, hệ thống kia vẫn có khả năng bơm nước. Hai hệ thống bơm này vẫn chưa thể bơm hết nước, để cho đất khô được. Muốn vậy, bên trong polder phải có hệ thống kinh mương lộ thiên để thâu nhận nước rỉ từ bùn trên mặt, để dẫn tới mương chánh có trạm bơm. Một khi đất khô dần, đất bị lún sụp, có nơi lún tới cả thước. Một khi đất đã đình đậu, không bị lún sụp nữa, hệ thống mương nhỏ lộ thiên được thay thế bằng ống thoát nước ngầm đặt trong lòng đất. Ðể biến thành đất canh tác, khi đất chưa thoát thủy hoàn toàn, khi còn bùn, hạt giống cỏ sậy (Phragmites australis) được máy bay gieo rải. Thảm cỏ sậy giúp đất khô nhanh, hệ thống rễ giúp cải tạo kiến trúc đất, và ngăn các loại cỏ dại khác mọc. Khi đất vừa khô, đốt cỏ sậy và gieo cải dầu (oilseed rape, Brassica napus). Năm thứ 3, mới bắt đầu gieo lúa mì (wheat), năm 4 lúa mạch (barley) và năm 5 lúa oat. Bắt đầu năm thứ 6, nông gia có thể canh tác hoa màu khác, tùy ý. Với kinh nghiệm tích lũy, các polder lớn khác lần lượt được xây dựng.
Noordoostpolder (Northeast-polder): Vì khó khăn tài chánh, polder này bắt đầu thực hiện năm 1936. Gồm 2 đê, dài tổng cộng 55km. Thế chiến bùng nổ, công tác bị đình trệ, cho tới cuối năm 1940 các đê mới hoàn thành, thoát nước hoàn tất vào tháng chín năm 1942, và 480km2 đất mới được tạo thành.
Flevoland: Công tác xây dựng các polders khác bị đình trệ bởi Thế Chiến II. Sau thế chiến, công trình tiếp tục với các polders vĩ đại hơn, rộng 1000km2, nay trở thành tỉnh Flevoland. Ðầu tiên polder Ðông Flevoland được thành lập trước, bắt đầu năm 1950 và hoàn thành 1956, với diện tích 540km2, cách ly với đất liền bởi một kinh đào, và bao quanh bởi một con đê dài 90km. Việc bơm nước nhờ vào 3 trạm bơm, 1 chạy diesel, và 2 chạy điện. Polder Nam Flevoland xây dựng từ đầu 1959 và hoàn tất 1967, với con đê dài 70km, có diện tích 430km2, với chỉ một trạm bơm diesel. Ngày 01/01/1986 Hòa Lan có thêm một tỉnh Flevoland mới, do xáp nhập polder Ðông và Nam Flevoland với một phần đất polder Ðông Bắc của công trình Zuiderzee. Tỉnh Flevoland có diện tích đất là 1419km2, với cư dân 370.000 (năm 2005) và 6 thành phố lớn. Thủ đô của tỉnh là Lelystad, đặt theo tên của vị cha đẻ công trình là Cornelis Lely (1854-1929).
Polder Markerwaard: Bắt đầu thực hiện năm 1963, bằng một đê dài 28km mang tên đê Houtribdijk hay Markerwaarddijk, chia hồ IJsselmeer làm 2 phần, phần phía bắc vẫn mang tên hồ IJsselmeer (rộng 1250km2), hồ phía nam con đê mang tên Markermeer (rộng 700km2). Việc thực hiện tiếp công trình bị đình chỉ vì thấy chưa cần thiết. Ðê Houtribdijk hiện làm một xa lộ nối liền đông và tây xuyên qua hồ IJsselmeer, và vùng Markerwaard hiện nay là vùng nghỉ hè và bảo tồn sinh thái.
Ðại công trình Deltawerken (Delta Works)
Song song với đại công trình Zuiderzeewerken (1919-1986), chính phủ Hòa Lan thực hiện công trình Delta (1950-1997) trên Tam-Giác-Châu thuộc phụ lưu sông Rhine - Meuse ở Tây Nam Hòa Lan. Công trình gồm việc thực hiện đê đập, đê biển, đê chống-bão, cống-thoát-nước, và cổng-điều-chỉnh-nước cho tàu bè thông thương. Nhờ vậy, tạo được nhiều hồ chứa nước ngọt, rút ngắn đường giao thông và đê duyên hải, nên công tác bảo trì trong tương lai sẽ ít tổn phí và dễ dàng hơn việc bảo trì nhiều hệ thống đê cũ chạy ngoằn ngoèo ở bên trong. Tổng cộng tổn phí khoảng 6,81 tỉ Euro.
Cũng nhờ thực hiện công trình Deltawerken, nhiều kỹ thuật làm đê mới được áp dụng, và nhiều tàu được đóng chỉ dành cho kỹ thuật tân tiến này. Rotterdam là hải cảng lớn nhất thế giới mà hàng hải là ngành kinh tế hàng đầu của Hòa Lan. Ngoài ra, khóa kín biển sẽ làm hư hại môi trường bên trong tam-giác-châu. Ðể duy trì tàu bè thông thương nhộn nhịp, và ngành ngư nghiệp nội địa không bị ảnh hưởng, các kỹ sư thủy lợi phải thiết kế lại các cổng-điều-chỉnh-nước, cống-tháo-nước, cầu, v.v... thế nào để nước biển của Biển Bắc thông thương được với hồ nước nội địa, tàu bè có thể qua lại dễ dàng, cá hồi (salmon) có thể di chuyển vào ra để sinh sản, v.v..., nhưng khi cần thì có thể khóa kín hoàn toàn, không cho lụt biển, thủy triều lớn xâm nhập nội địa. Cũng như công trình Zuiderzeewerken, để rút tỉa kinh nghệm và thử nghiệm kỹ thuật mới thiết kế, các kỹ sư thủy lợi bắt đầu thực hiện trước những dự án nhỏ, dễ dàng nhất ở công trình Deltawerken.
Năm 1950, hai cửa vịnh nhỏ ở Brielle và Vlaardingen được chắn đê biến thành hồ nước. Tiếp theo là khóa cửa vịnh Oosterschelde, Haringvliet và Grevelingen bằng một con đê biển dài 700km, 17 cống-thoát-nước trên đê Haringvliet có khả năng tháo 21.000m3/giây. Hai cửa vịnh ở Nieuwe Waterweg và Westerschelde được tàu bè thông thương đến Rotterdam và Antwerp nhờ các cổng-điều-chỉnh-nước tân tiến. Ðê dọc thủy lộ này cũng được nâng cao hơn và vững chắc hơn. Ðồng thời các công trình xa lộ, cầu cống trong vùng này được xây dựng hay tái thiết. Vì áp lực của nhóm bảo vệ môi trường và các nông dân nuôi sò, thay vỉ biến hồ Oosterschelde thành hồ nước ngọt, nay phải để nước biển chảy vào, vì vậy các cống-chống-thủy-triều được thiết kế lại. Bình thường, các cống này mở để nước biển chảy vào, hay rút ra theo thủy triêu, nhưng khi có bão, khi thủy triều cao quá 3m trên mực biển, thì tự động các cống-chống-thủy-triều đóng kín.
Kỹ thuật mới được áp dụng khi làm đê Braakman. Vùng này có thủy triều cao, với dòng hải lưu chảy mạnh, đê bình thường không thực hiện được vì bị trôi. Dùng các khối vuông rỗng bằng ximăng cốt sắt tiền chế – gọi là phoenix caissons – xếp thành hàng, đổ cát đầy rồi trét kín mặt với ximăng. Sau đó, đê được xây trên khối ximăng chứa cát tiền chế này.
Công trình Delta hoàn thành năm 1997, sau gần 50 năm thực hiện, và đó là công trình chống lụt biển lớn nhất thế giới, tổng cộng 16.493km đê biển, gồm 2.415km đê chánh và 14.077km đê phụ, với tổng cộng 15 công trình chính. Vì hiệu quả hâm nóng toàn cầu, với nguy cơ nước biển dâng cao, đồng thời với nền móng nước Hòa Lan đang sụp lún, chánh phủ Hòa Lan từ 1996 đang tăng cường làm cao thêm với nền móng đê vững chắc hơn cho khoảng 400km đê hiện hữu và phải hoàn thành năm 2015.
Chống ngập lụt do sông
Sông Rhine khi vào lãnh thổ Hòa Lan chia thành nhiều phụ lưu, quan trọng là IJssel chảy vào Zuiderzee (nay là hồ IJsselmeer) và Waal cùng với sông Maas (phụ lưu của sông Meuse) chảy vào Tam-Giác-Châu phía nam.
Từ ngàn xưa, để ngăn lụt từ nước các sông này dâng cao trong mùa mưa lũ (mùa đông), mỗi một bên bờ sông xây 2 đê kiên cố. Ðê kế dòng sông gọi là “đê-mùa-hè” (mùa có ít mưa, lụt), có nhiệm vụ ngăn lụt nhỏ, nếu có, trong mùa hè; và đê bên ngoài là “đê-mùa-đông” (mùa lũ lụt chính), là đê chánh, cách xa sông, có nhiệm vụ không cho nước lũ tràn vào đồng hay vào các polders. Trong mùa hè khoảng đất giữa 2 đê-mùa-hè và đê-mùa-đông khô ráo, dùng làm đồng cỏ hay canh tác, nhưng vào mùa đông, nó trở nên ngập lụt và khoảng đất giữa 2 đê-mùa-đông thành một dòng sông lớn, nhờ vậy là giảm sức chảy tránh phá vỡ bờ đê (đê-mùa-đông) gây lụt.
Vùng ngập lụt do sông ở Hòa Lan hiện nay
Ngày 02/02/1995, mưa lũ ở Pháp và Ðức làm sông Rhine và Meuse ngập lụt, nước sông Rhine tại Lobith (biên giới với Ðức) dâng cao 13,48m trên mực biển. Chính quyền sợ rằng các đê dọc các sông này trong lãnh thổ Hòa Lan không thể chống cự nổi với áp lực nước ở thượng lưu nên phải ra lệnh 250.000 dân ở vùng Ðông và trung tâm Hòa Lan phải di tản. Mặc dầu không bị vỡ đê, hay nước tràn qua đê, chính phủ Hòa Lan lập tức có chương trình khẩn cấp 1,2 tỉ USD để củng cố lại hơn 800km hệ thống đê dọc sông và dự trù phải hoàn thành trước 2008. Nếu các đê này vỡ, 70% lãnh thổ Hòa Lan sẽ chìm ngập dưới 6m nước.
Với hệ thống đê biển và đê sông hiện tại, các kỹ sư thủy lợi Hòa Lan cam đoan rằng dầu mực nước biển có dâng cao thêm 1m và với vũ lượng gia tăng thêm 25% ở Tây Âu do hậu quả hâm nóng toàn cầu, Hòa Lan sẽ vẫn an toàn. Tuy vậy, chính phủ Hòa Lan lúc nào cũng cảnh giác vấn đề nghiêm trọng này.
Tái tạo sinh môi.
Với hệ thống đê biển vững chắc, nước mặn không còn xâm nhập vào nội địa, sinh môi vùng nước mặn, nước lợ bị hủy hoại. Hồ Grevelingen trở thành nước ngọt khi con đê biển Brouwerdam dài 6km hoàn thành (1971), động và thực vật nước mặn bị hủy diệt. Vì vậy, năm 1978 một cống nước được thiết lập trên đê này để nước biển thông thương lại với hồ, nhờ vậy môi trường biển được tái tạo và động thực vật biển được tái sinh trong hồ này. Cũng vậy, việc tái tạo môi sinh cũng được thực hiện ở Hồ Haringvliet.
Giải quyết vấn đề ô nhiễm
Sông Rhine bị ô nhiễm rất nặng, mà Hòa Lan ở hạ lưu nên nhận nhiều hậu quả, nhất là ở hồ Ketelmeer. Ðể giải quyết vấn đề này, các kỹ sư Hòa Lan làm một đê vòng tròn, đường kính 1km ở giữa hồ Ketelmeer, đê cao hơn mặt nước hồ 10m, bên trong đào sâu 45m, vách đê bên trong được hàn kín. Polder đặc biệt này dùng để chứa các chất thải do xáng múc từ hồ.
Nếu không có hệ thống đê biển và đê sông, 70% lãnh thổ Hòa Lan sẽ chìm sâu 6m khi có lụt do biển haysông. Người Hòa Lan đã phấn đấu liên tục trên 2.000 năm nay để có một đất nước giàu đẹp hiện nay. Chính phủ, quốc hội, nhân dân, các nhà khoa học, nông gia, các nhà bảo vệ môi trường, v.v… cùng ngồi chung với nhau để giải quyết việc sống còn của đất nước họ. Vì vậy, không có nhiều mâu thuẫn chính trị, xã hội, kinh tế trong vấn đề giải quyết vấn đề lụt lội ở Hòa Lan. Tất cả đều nhắm đến tương lai lâu dài cho một đất nước Hòa Lan phồn thịnh.
TS. Trần Ðăng Hồng
Trích từ Tập san Ðịnh Hướng, số Mùa Hè 2010
_______
Tiến sĩ Trần Ðăng Hồng, nguyên giảng viên Ðại Học Nông Nghiệp Cần Thơ (Việt Nam), giảng viên và nghiên cứu tại Department of Agriculture, The University of Reading, UK. Ông đã đóng góp 6 quyển sách do International Plant Genetic Resources Institute (IPGRI, Rome) xuất bản và hơn 80 bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa thực vật học.