Nguyễn An
Bản dịch lời giới thiệu của Wayne
Karlin

"Tại sao chỗ nào cũng dùng từ ‘chiến tranh’?", một người bạn Mỹ gốc
Việt, Nguyễn Quí Đức, đã than phiền với tôi khi tôi trình bày về cái tên của
tuyển tập này. "Việt Nam không phải là một cuộc chiến tranh", anh
nói, trong khi dẫn chứng một đoạn thơ được nhiều người biết của một nhà văn
Mỹ gốc Việt khác, Lê Thị Diễm Thúy, cho dù câu trích dẫn thực sự sẽ là VIỆT
NAM KHÔNG PHẢI LÀ CHIẾN TRANH, viết bằng chữ hoa, một tiếng kêu đau đớn gởi
tới cả nước Mỹ rằng không được định nghĩa và hạ thấp một nền văn hóa cổ và đa
dạng, một dân tộc tính, lịch sử và ngôn ngữ xuống thành cái thập niên chết chóc
và bạo lực đó, đánh dấu mối quan hệ chính với nước Mỹ, và đó cũng là điều mà
hầu hết người Mỹ nghĩ tới khi nghe tiếng "Việt Nam".
Tuy thế, một người biên tập mang cái tư kiến và những điều mình đắc ý vào công trình, và mối quan hệ của riêng tôi với Việt Nam, cũng giống như hàng ngàn người Mỹ khác, đã sinh ra trong chiến tranh và đã nở dần thành tình yêu. Chiến tranh là thời thơ ấu, theo như Michael Herr dẫn giải, rằng nó đã tạo nên đặc tính và sự tự xác định của mình, cũng như bằng nhiều cách nó đã tạo nên đặc tính và sự tự xác định của thế hệ tôi và của đất nước tôi, và một trong những bài học dai dẳng nhất của thời thơ ấu đó là cái kiến thức đơn giản và khủng khiếp cho đến nỗi giết chóc, gây thương tật, suy đồi và hủy diệt đã có thể xảy ra do sự thiếu khả năng và không sẵn lòng vượt lên trên sự tùy tiện trong cách định nghĩa chúng ta dành cho những người khác. "Người ta thường mù quáng trong sự khôn ngoan của chính mình", một nhân vật trong truyện Insulin nói, một câu nói có thể gói trọn toàn bộ kinh nghiệm của Mỹ trong trận chiến Việt Nam, một bài học vẫn đòi hỏi người ta phải nhớ.
Nói cách khác, chiến tranh là phản đề của tình yêu, có thể đó là một ý kiến tầm thường, nhưng cũng có thể đó cũng là một triết lý giản dị người ta không thể thuật lại đầy đủ, và cái tên của tuyển tập này nảy sinh từ sự cộng sinh căn bản và từ cả sự đối lập căn bản của hai từ đó. Khi Hồ Anh Thái và tôi bắt tay vào công trình này, tôi bắt đầu đọc những truyện hậu chiến tiêu biểu anh gửi cho tôi. Tất cả những truyện ấy, bằng cách này hay cách khác, dường như đều in dấu một niềm khao khát tình yêu, các truyện đều trình bày nhân vật qua cách họ cần tình yêu hoặc đánh mất nó, chứ không theo cách họ đi giết hay là bị giết. Tôi đã định viết ra đây rằng người Việt là một dân tộc giàu tình cảm, nhưng thật là ngớ ngẩn khi nói rằng: tất cả mọi người đều giàu tình cảm, tất cả đều bận tâm và bị cuốn hút vào những vấn đề của trái tim và những chuyện ở bên dưới dây lưng quần. Song tình yêu trong nhiều tác phẩm văn học cổ điển và hiện đại của Việt Nam đã trở thành biểu tượng cho nhu cầu cần có một sự tương phản và phương thuốc giải độc cho sự phi nhân tính của bạo lực, tước đoạt, tham lam, tham nhũng, sự lãnh đạm – tất cả mọi bi kịch trong vũ trụ... cho dù tất cả đều mãnh liệt ở một quốc gia đã trải qua một ngàn năm chiến tranh và cách mạng cùng hậu quả của cả hai thứ đó. "Chúng ta phải làm gì để cho con cháu chúng ta sẽ không nghĩ rằng ta đang sống cùng ma quỷ và vì thế phải tiếp tục sống chung với đám đó hàng ngày trong đời?", một nhân vật trong truyện của Nguyễn Mạnh Tuấn mang cái tựa tương xứng, Nhà bên mồ, đã hỏi: Tình yêu! Tiếng than như một động từ, một khẩn cầu hầu như tuyệt vọng, lại chính là câu trả lời cho câu hỏi đó trong nhiều truyện của tuyển tập này. Nó cho phép ta trừ hết ma quỷ, bất kể chúng nảy ra từ chiến tranh hay từ thiếu thốn, hay là ở lòng thù hận đeo bám từ quá khứ, hoặc là từ sự nông cạn và không mục đích của đời sống hiện đại. Nó là cái lý tưởng muôn đời bị thực tại của thế gian xói mòn, sự thiết yếu của nó thường được nhận ra qua sự thất bại khi thực hiện.
Khi tôi gặp các nhà văn Việt Nam lần đầu tiên, vào đầu thập niên 90, tôi đã tìm được ở họ lòng nhân ái và sự hòa hợp cảm thông của con người, và khi tôi bắt đầu đọc những truyện này, tôi khám phá ra rằng hai điều này đều phản ảnh nỗi đau và mối quan tâm của chính chúng ta, đồng thời nó đã mở cho ta thấy phần nào một thế giới được tạo lập do nhận thức và kinh nghiệm độc đáo tạo nên. Trong số những phát hiện này – sự giống nhau về mặt con người và sự khác biệt về văn hóa – không có sự phát hiện nào gây giật mình; mà dường như chúng cũng không phải là sự phát hiện nữa. Thế nhưng gây ra giết chóc như chúng ta đã làm và đã thoát ra, mà điều hiển nhiên chúng ta đều biết là nếu gặp nhau mấy thập niên trước chúng ta đã cố giết nhau cho bằng được, sự đơn giản ở chỗ đáng lẽ ta phải biết mà đã không làm, những nhận thức này đã gây ra trong tôi một nỗi buồn da diết, và sau rốt, một niềm tin mới mẻ vào việc những chuyện hư cấu có khả năng tạo nên sự chuyển đổi ý thức từ gốc rễ, và nó cho phép chúng ta có một lúc nào đó sống trong nhận thức của người khác, cũng vì thế nó làm cho chúng ta mở mang thêm, và điều tốt nhất là làm cho chúng ta ngại giết chóc và mở lòng mình trước tình yêu. "Chúng ta phải tranh đấu chống lại những buồn chán khi đứng trước nỗi khổ đau của người khác, chống lại tính tham lam và hèn hạ đã ăn mòn tâm hồn. Chúng ta phải bảo nhau nên yêu thương thế nào cho chiến tranh đừng bao giờ xảy ra nữa", những lời này của Lê Minh Khuê, chị vốn là một bộ đội, một đoàn viên thanh niên xung phong trên đường mòn Hồ Chí Minh, một nhà văn và một trong những người cùng trong nhóm biên tập với tôi, đã được đưa vào lời giới thiệu của tuyển tập Phía bên kia góc trời in năm 1995, bao gồm truyện của các nhà văn Mỹ và Việt Nam từ cả ba phía của chiến tranh, những tác phẩm nhắm vào hậu quả của cuộc chiến đó. Những lời đó xem ra rất là phù hợp khi một lần nữa đưa vào tuyển tập này, do bởi chúng định nghĩa tình yêu như trong những phương cách nhiều truyện ở đây đã làm: đó là sự khao khát và nhu cầu đối chọi lại những gì tàn bạo, ngoảnh mặt quay lưng, suy đồi, thương vong, giết chóc cả thể xác lẫn linh hồn.
Như tuyển tập này chứng tỏ, truyện ngắn ở Việt Nam là một hình thức nghệ thuật ở thể đọc đa dạng, phong phú (cho dù những lần xuất bản đầu tiên của các tập truyện chỉ là vài ngàn bản hoặc có khi ít hơn, nhưng có cả một làn sóng truyện ngắn được đăng tải trên những nhật báo đại chúng và các tuần san cùng nguyệt san); điều đó có nghĩa là văn học vẫn đóng vai trò chủ yếu theo cách thức xã hội Việt Nam tự xét nghiệm mình. Văn học Việt Nam hiện đại (1) và các tác giả có thể phân thành một số giai đoạn: những nhà văn tiền cách mạng, những nhà văn thuộc những thế hệ chiến tranh với Pháp, những nhà văn thuộc thế hệ chiến tranh với Mỹ, những nhà văn hậu chiến và những nhà văn thời đổi mới – thời kỳ từ 1986 đến nay. Những nhà văn trong tuyển tập này bao gồm tất cả các thời kỳ đó: trọng tuổi nhất là Tô Hoài, sinh năm 1920, trẻ nhất là Nguyễn Ngọc Tư, sinh năm 1976. Mặc dù sự xuất hiện của những nhà văn mới đòi hỏi một sự bổ sung liên tục, chúng tôi đã không thể đưa hết những tác giả mình muốn vào tuyển tập, nhưng điều mong muốn của chúng tôi là giới thiệu đến độc giả những nhà văn đã có nhiều tác phẩm được xuất bản và đã tạo được sự chú ý đúng mức, có hướng đi xác định trong văn học Việt Nam hiện đại.
Các truyện được phân chia dựa theo từng thời kỳ như đã đề cập ở trên, cũng như được chia theo những hình trạng khác nhau của tình yêu hay sự diễn tả tình yêu trong những khoảng thời gian ấy: tình yêu cách mạng, xác thịt, hôn nhân, ngoại hôn, tính dục, chay tịnh, tình cha nghĩa mẹ, tình yêu tinh thần (2). Phần đầu tiên, ‘Huyền thoại – Tình yêu sau chiến tranh’, bao gồm những truyện có liên quan trực tiếp đến hậu quả của chiến tranh, những truyện về cả tổn thất và hy vọng – về những người đàn bà góa, những người đàn ông sống một mình, cha mẹ mất con, như truyện một bà mẹ người Mỹ; hoặc viết về những mất mát trực tiếp trong chiến tranh. Truyện ngắn lấy làm tiêu đề cho phần này của Chu Văn mở đầu cuốn sách và ta có thể coi đó là lý do cho cả tuyển tập: đó là mẩu chuyện, khi thì kỳ quái, lúc lại sống sượng, về tình yêu trong suốt cuộc chiến, hoặc là tình yêu dưới bom đạn – nhưng sau rốt là câu chuyện về hy vọng vào sức mạnh chuyển hóa của nghệ thuật.
Cuộc sống của những Lứa đôi ở phần tiếp theo được đan dệt vào nhau và không dứt ra được giữa đàn ông và đàn bà, giữa vợ chồng, giữa những người yêu nhau và những kẻ cưỡng đoạt, giữa cha mẹ và con cái, cả nỗ lực, dù thành công hay không, để tìm cho ra và tạo dựng những hòn đảo an toàn và có ý nghĩa trong những đổi thay bất ngờ của xã hội và dưới những áp lực phức tạp thời hậu chiến ở Việt Nam. Đó là bối cảnh được thể hiện sắc nét trong Cơn mưa cuối mùa, một truyện của Lê Minh Khuê, mở đầu cho phần này. Đó là câu chuyện về sự dan díu bế tắc của hai kỹ sư trên một công trường xây cất, nó giống như nhiều truyện khác được dựng lên trong thời đổi mới, nói lên nét tương phản giữa sự toàn hảo của con người và hạnh phúc, đối chọi với cái giá của chiến tranh dường như đòi hỏi phải cưỡng lại những thực thể của đời sống "đến đá cũng đổ mồ hôi" trong đó "chỉ còn lệ rơi khi ta đặt lầm cửa".
Phần thứ ba, Tình yêu thời đổi mới tiếp nối một đề tài lớn trong những tác phẩm viết từ thập niên 80 đến giờ: sự thất bại và suy đồi của hệ thống xã hội chủ nghĩa, và tương phản lại, sự thất bại và suy đồi của thị trường tự do, của xã hội tiêu thụ, kéo theo sau đó là sự xói mòn của tình đoàn kết xã hội đã có được trong thời chiến, của những quan hệ gia đình chặt chẽ, của sự hài hòa cân đối và nhân tính giản dị vốn là những lý tưởng của văn hóa Việt Nam. Trang Thế Hy, một nhà văn sinh năm 1924, bình luận về nhiệm vụ của nghệ thuật trong Tiếng khóc và tiếng hát: "người cầm bút đừng bao giờ đánh mất cái điểm tựa đáng tin cậy của mình, là những thử thách của im lặng", và như thế đã tóm lược được lời kêu gọi mà rất nhiều nhà văn đã được nghe từ sau 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, với sự mở cửa nền kinh tế thị trường tự do và đã nhiều lần khuyến khích các nhà văn, nghệ sĩ và nhà làm phim, để họ viết lên những tác phẩm làm người ta chú ý tới những vấn đề giằng xé trong xã hội cùng những thực trạng của cuộc sống hiện đại.
Tình yêu đã mất, tiểu tựa của phần thứ tư nói lên một đề tài thường thấy trong văn học cổ điển Việt Nam (đã được tóm gọn lại trong Truyện Kiều, thiên trường ca thế kỷ 19) lại được tiếp tục trong những sáng tác thời hiện đại: sự tiếp nối đã được biểu hiện trong câu chuyện của Nguyễn Phan Hách, Cô gái đầm sen, một truyện ngụ ngôn dâm tình giống kiểu truyện thần tiên. Truyện về người đàn ông tìm thấy một người tình ma thuật sống dưới đầm sen, để rồi lạc mất cô, mất cả tình yêu, nhưng "suốt cả chuỗi ngày sau đó trong đời chàng… chỉ mơ tưởng đến chuyện đó". Những truyện trong phần này còn gắn với văn học cổ điển Việt Nam bằng một cách khác: có rất ít dính dáng tới cuộc chiến có người Việt trong đó, từ chuyện một nhà ngoại giao của Hồ Anh Thái yêu một cô gái bản xứ ở nước Malastan tưởng tượng trong Lá quốc thư, đến xung đột giữa tình yêu xác thịt và tâm hồn trong truyện Thương nhớ hoàng lan của Trần Thùy Mai.
Phần cuối cùng, Tình yêu cuối, bao gồm những truyện tình khi thành công, khi tan vỡ, tình yêu đến hoặc rốt cục biến mất trong ánh sáng nhá nhem của đời sống, là truyện của làng quê, của sự phát triển gia cư nơi đô thị, là truyện những ông bà già trở thành kẻ tôi tớ cho lũ con của họ, truyện trong hộ tập thể của những nghệ sĩ luống tuổi – truyện này của tác giả trẻ nhất trong tuyển tập viết về những ngày cuối cuộc đời.
Để chấm dứt tuyển tập, chúng tôi chọn Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, trong đó con cái được sinh ra để trả nợ cho tội lỗi của cha mẹ bằng một cách tàn bạo, trong đó lịch sử được ghi nhớ không phải như một nguồn sức mạnh mà là một lời xin lỗi cho sự báo thù đầy thú tính. Đó là truyện ngắn về sự hàn gắn, nói về tình yêu qua một cách đầy năng lực như một phương thức cần thiết để giải phóng con người khỏi vòng hủy diệt của quá khứ – và như thế chúng tôi hy vọng nó có thể nối người đọc trở lại phần một và những lời Lê Minh Khuê nói về sự cần thiết phải có một tình yêu sau chiến tranh, và để chống lại chiến tranh, chống lại tất cả những gì bóp méo và tiêu hủy thể xác cùng linh hồn của con người.
Nguyễn An
_______________
(1) Trong giới hạn của tuyển tập này, từ “văn học Việt Nam đương đại” được dùng để chỉ những tác phẩm văn học viết bằng Việt ngữ đã được xuất bản tại Việt Nam, sau cuộc chiến Việt – Mỹ, cho dù trong đó có vài nhà văn đã có tác phẩm xuất bản trước đó đã lâu. Rất tiếc là định nghĩa này không bao hàm được phần văn học của những nhà văn có liên hệ đến phía Việt Nam đã bại trận, cũng như không đề cập đến những người Việt lưu vong. Sự phong phú và lớn mạnh của mảng văn học này đáng được ghi dấu bằng một cuốn tuyển tập riêng, và tôi mong đợi một ngày chiến tranh thật sự chấm dứt và toàn bộ văn học Việt có thể thu vào một cuốn tuyển tập như cuốn này.
(2) Mọi hình thái của tình yêu, có nghĩa là ngoại trừ tình yêu đồng giới tính mà hiện vẫn còn là một đề tài cấm kỵ ở Việt Nam. Tôi chỉ có thể đưa ra một truyện của Vũ Bảo “Cha Tôi Là Một Người Đàn Bà” đã nói lên mối tình đồng tính đầy cảm thông.
Xem nguyên văn 'Het voorwoord van Wayne
Karlin'