Vũ Thư Hiên


Chuyện cũ, chuyện mới



Tôi dịch TRẮNG TRÊN ĐEN hoàn toàn tình cờ.
Đã nhiều năm tôi không làm việc ấy nữa.
Đơn giản vì tôi không có thời giờ.

Đùng một cái, tôi nhận được cuốn TRẮNG TRÊN ĐEN do anh bạn Nga Anatoli Sokolov từ Moskva gửi cho, gửi tay chứ không gửi bưu điện, vì bưu điện Nga bây giờ tồi lắm, gửi rất dễ mất, như anh nói.

Kẹp vào trang đầu của cuốn sách mỏng là một lời nhắn: “Một cuốn sách rất tốt cho những người cho đến nay vẫn còn chưa biết mình ở đâu. Tại sao anh không dịch cho đồng bào anh đọc nhỉ?

Sokolov là một học giả quen thuộc với giới nghiên cứu lịch sử và văn học ở Việt Nam. Anh học tiếng Việt từ khi còn trẻ để rồi mắc bệnh yêu Việt Nam, bệnh kinh niên, chữa không được. Anh nghiên cứu văn học Việt Nam, lịch sử cận đại Việt Nam đến mức nhiều người Việt Nam phải xin tài liệu của anh. Anh ca ngợi Việt Nam, anh bênh vực Việt Nam bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.

Thấy anh như vậy những người hào hứng và hùng hổ gắn mình, và cái ghế ngồi của mình, với chế độ độc tài (hay chuyên chính nhỉ?) tưởng anh yêu cả cái thể chế xã hội của họ. Nhưng thích TRẮNG TRÊN ĐEN đến mức khuyến dụ tôi dịch nó cho độc giả Việt Nam được đọc, Sokolov không phải là người họ lầm tưởng.

Tôi nghe lời Sokolov.

Tôi đọc TRẮNG TRÊN ĐEN. Đọc một mạch.

Nếu một cuốn sách bắt ta đọc nó không ngừng, cho đến trang cuối, thì thường là sách hay, kinh nghiệm mách bảo tôi thế. TRẮNG TRÊN ĐEN là một cuốn sách hay thật. Nó không phải là một áng văn chương hiện đại, được hiểu như một sự õng ẹo trong bút pháp, mà là sự chia sẻ những suy ngẫm về sự đời của tác giả với người đọc.

Cả cuốn sách là một câu chuyện buồn, hoặc hơi buồn, tùy theo cách đánh giá, tùy tâm trạng người đọc. Chuyện về số phận những con dân nhỏ bé, vì nhỏ bé mà bất hạnh, của một quốc gia vĩ đại. Những chuyện xảy ra ở quốc gia vĩ đại ấy, và ở những quốc gia giống nó, một thời hùng mạnh, một thời bại vong, nhiều người đã viết, nhiều người đã biết.

Độc giả ở phương Tây không còn thích đọc đề tài này nữa. Đề tài về những gì xảy ra ở các quốc gia đã chết ấy, một thời gợi trí tò mò của độc giả về sự kỳ bí của những sự kiện bị che đậy, bây giờ bán không chạy. Chúng nằm trong các kho chứa, thỉnh thoảng lại được lôi ra phủi bụi, bán hạ giá.

Nhân loại ngày nay coi mấy thứ đó là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, là cái thuộc về một trang sử đã lật qua. Cho dù đến nay thỉnh thoảng trên tivi vẫn còn chiếu hình ảnh thời sự những lãnh tụ hoặc “vĩ đại kiệt xuất” hoặc “muôn vàn kính yêu”, bét nhất là lãnh tụ “anh minh rất mực”, còn sống sót, mặt gỗ lầm lì, lưỡi gỗ lép bép. Xem những cảnh đó khán giả ngáp dài, tựa hồ gặp lại những bóng ma ngớ ngẩn đã không còn dọa nạt được ai.

TRẮNG TRÊN ĐEN là truyện tự sự. Không phải tiểu thuyết. Không phải ký. Nó là chuyện phiêu lưu của một đứa bé ra đời năm 1968 tại một bệnh viện sang nhất Liên Xô nằm trong khuôn viên điện Kremli. Bệnh viện này lớn, với trang bị tối tân, đặc biệt dành cho những lãnh tụ lớn hoặc chưa được lớn cho lắm, hoặc đang xếp hàng chờ để được trở thành lớn, và chư vị khách quý của họ từ bốn phương trời.

Không phải ai cũng có hân hạnh được ra đời ở đó. Được ra đời ở đó đứa bé thế là có phúc. Nó được hưởng phúc lớn ấy bởi nó là cháu ngoại của tổng bí thư đảng cộng sản Tây Ban Nha Ignacia Gallego (1). Chẳng những có phúc được ra đời ở bệnh viện sang trọng, nó lại có thêm một phúc nữa là trong hai đứa sinh đôi, nó là đứa sống sót. Nhưng nó cũng là đứa vô phúc, bởi khi ra đời nó đã mang dị tật não.

Người ta nói với mẹ nó là nó đã chết.

Nhưng đứa bé không chết.

Nó được bí mật mang đến những bệnh viện đặc biệt, những nhà trẻ đặc biệt, được nuôi dưỡng và chữa chạy, được đi học ở trường dành cho trẻ tật nguyền, theo đúng Hiến Pháp của quốc gia xã hội chủ nghĩa nhân bản.

Người mẹ chỉ được biết con mình còn sống sau 30 năm nhờ một ngẫu nhiên trời cho. Người ông thì hoàn toàn không biết đến sự tồn tại của cháu. Tác giả không nhắc đến người cha – một người Venezuela gốc Ấn. ông ta hình như đã bỏ đi khi biết về đứa con bất hạnh được báo là đã chết – nếu tin ở một trong những bài viết về tác giả.

Như vậy, đứa bé sống như một sinh vật từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất mọc lên. Nó thậm chí không được sống như một sinh vật bị bỏ quên. Để có thể quên nó, người ta phải biết đến sự tồn tại của nó trước đã. Nó sống, tứ cố vô thân, trên không chằng dưới không rễ, không ai nhận biết, chẳng ai muốn dính dáng, cứ thế phiêu lãng trong cuộc đời vô định. Nó sống, không có quá khứ, chẳng biết tương lai, trong cảnh bèo dạt mây trôi, được đến đâu hay đến đó.

Điều duy nhất mà nó biết chắc là khi nó trưởng thành thì, theo một quy định nào đó, vào một ngày nào đó, nó sẽ được đưa đến “nhà già”, được đặt vào một phòng không người chăm sóc để sống thêm ít lâu nữa, có thể là một tháng, một tuần, mà cũng có thể vài ngày.

Rồi chết.

Mọi cái đều có kế hoạch cả, đều đúng đắn cả. Một bộ máy được thiết kế hoàn hảo, vận hành tốt. Đứa bé ấy ghi lại tất cả những gì nó nếm trải. Chẳng hạn, như thế này:

Thầy hiệu trưởng bực bội rít thuốc, tiếp tục câu chuyện bỏ dở bằng giọng công việc.
– Dù sao thì đồng chí cũng nhận chứ? Này, cần lắm đấy.
– Đừng có vật nài. Đồng chí phải hiểu cho chúng tôi chứ. Nó năm nay mới mười sáu. Phải không nào?
– Mười lăm. – tôi máy móc chữa lại.
– Ừ thì mười lăm – người đàn ông đồng ý – Một tháng nữa nó mới chết, chậm lắm là hai. Tôi chỉ có quyền chôn người không dưới mười tám tuổi. Đây là nhà già, đống chí hiểu chưa? Thử hỏi tôi sẽ bỏ nó vào đâu trong hai năm ấy? Tất cả tủ lạnh đều hỏng hết rồi. Hỏng, đồng chí hiểu không? Đồng chí hãy nhớ lại, hãy nhớ lại đi, năm ngoái đồng chí đã trả lời tôi thế nào khi tôi nhờ đồng chí giúp đỡ về vụ tủ lạnh? Nhớ ra rồi hử? Thế thì đừng xin xỏ nữa, vô ích. Cứ đưa nó đến nhà trẻ thiếu năng não, ở đấy người ta có quyền chôn cả trẻ sơ sinh.

Tức là, nó đã bước qua cái huyệt được đào sẵn cho nó. Nó cũng không phải kẻ bất hạnh, chiếu theo chân lý “Đào đâu ra những kẻ bất hạnh trong một đất nước hạnh phúc nhất thế giới cơ chứ?”. Vậy nó là người hạnh phúc chăng?

Cũng không phải.

Nó chỉ là người ngẫu nhiên ra đời một cách không đúng đắn trên mảnh đất đúng đắn. Nó nhìn thấy cái đó rất rõ.

Tôi nghe những động từ không đúng đắn của cái tiếng Anh không đúng đắn. Người đọc chúng là một phát thanh viên không đúng đắn của nước Mỹ không đúng đắn. Là một con người không đúng đắn trong một thế giới đúng đắn từ trong ra ngoài, tôi cần mẫn học tiếng Anh. Tôi học là học thế thôi, học chỉ cốt để khỏi phát điên, để khỏi trở thành đúng đắn”.

Có những cái đúng đắn đáng sợ thật.

Đứa bè ấy sau này trở thành nhà văn, tác giả cuốn sách bạn đang cầm trong tay – Ruben David Gonzalez-Gallego.

Vượt qua số phận nghiệt ngã, bằng ý chí kháng cự không thể bẻ gãy, nó đã sống, trở thành nhà văn, để có lúc tặng lại cho đời một kinh nghiệm sống, có thể chỉ của riêng nó, mà cũng có thể, biết đâu đấy, là cái đáng để cho nhièu người suy ngẫm.

Ruben viết về mình và các bạn cùng thế hệ và cảnh ngộ ở trong cái đất nước hạnh phúc nhất thế giới:

Là những đứa trẻ vui tươi, tốt bụng, thông minh, chúng tôi muốn sống, chúng tôi rất muốn sống. Trong chúng tôi có những nhà vật lý, hóa học, sinh vật học, và có thể cả những nhà thơ tương lai. Chúng tôi đã không bị giết sạch. Người ta đã không giết tôi đến cùng”.

Là một đứa bé, Ruben không có khả năng lựa chọn. Những đứa bé không có quyền lựa chọn. Chỉ những người lớn, và là những người may mắn lắm, hoặc quả cảm lắm, mới có quyền đó. Nó chỉ đơn giản sống, chịu đựng hoặc hưởng cái mà cuộc đời cho nó. Nó quyết định tặng lại cho cuộc đời cái mà nó có thể tặng.

Ruben viết bằng một ngón tay gõ trên bàn phím PC, chẳng bao giờ ngờ rằng tối ngày 4 tháng 12 năm 2003, tại khách sạn Moscow Golden Ring Hotel, Giải thưởng Booker-Open Russia hàng năm cho tác phẩm viết bằng tiếng Nga hay nhất trong năm đã được long trọng trao cho mình.

Sách viết bằng tiếng Nga, vì một lẽ đơn giản: Ruben David Gonzalez-Gallego không biết tiếng Tây Ban Nha.

Cuốn sách viết về một chuyện cũ mà trong thời hiện tại người ta không còn muốn đọc bỗng trở thành sách bán chạy nhất không phải chỉ ở Nga. Nó được dịch ra nhiều thứ tiếng, và cũng là best-seller ở nơi nào nó được phát hành.

Những nhà văn đã đọc TRẮNG TRÊN ĐEN đều nhất trí về nguyên nhân thành công của cuốn sách. Ấy là trải qua tất cả những đau khổ không thể tưởng tượng nổi trong cuộc đời, tác giả vẫn giữ được nguyên vẹn tình thương yêu đối với con người.

Là nhà văn, anh ta còn cách nào khác?

Không thương yêu con người, không ca ngợi lòng tốt, sự chân thành trong tình thương giữa con người với con người thì anh còn làm nhà văn được chăng?

Với Ruben David Gonzalez-Gallego, hoặc với bất cứ nhà văn nào, cái đó vừa là điểm son, vừa là nghiệp chướng, không chạy đâu cho thoát.

Tôi tặng bản dịch này cho những ai còn khả năng thông cảm với nỗi đau của đồng loại. Và, cho cả những người hạnh phúc đến tê liệt cảm giác, không còn biết nỗi đau của chính mình. Tôi dịch nhanh để bạn đọc.

Nếu có sai chắc không sai bao nhiêu. Nếu có lỗi chắc không phải là lỗi nặng. Mục đích của tôi là chuyển đến bạn những điều Ruben muốn nói với bạn. Trong chừng mực ấy, tôi nghĩ tôi làm được cái tôi muốn làm.

Chuyện cũ rồi.

Nhưng trong cuộc đời có biết bao nhiêu tam giác đồng dạng chỉ khác nhau bởi kích cỡ. Hoặc bởi sự sắp đặt ngược xuôi để đánh lừa con mắt.

Vì thế, với bạn, nó hoàn toàn có thể là chuyện cũ người mới ta.

 

Vũ Thư Hiên.

________________

Chú thích:

(1) Trong Đại Bách khoa Toàn thư Liên Xô trang 272 có ghi: “Gallego Ignacio (sinh năm 1915), từ 1948 đã ở trong các cơ quan lãnh đạo Đảng cộng sản Tây Ban Nha, trở thành tổng bí thư Đảng cộng sản Tây Ban Nha từ năm 1984”. Tháng 3 năm 1985, Ruben David Gonzalez-Gallego được nhìn thấy ông ngoại trên tivi, khi đương kim tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Mikhail S. Gorbachev tiếp Ignacia Gallego. lão trượng của phong trào cộng sản Tây Ban Nha.

Trở lại trang chính


Cái Đình - 2005