Võ Kỳ Điền


Những ngày rất mới

.

Mặt trời buổi sáng đã lên khá cao chiếu cái ánh sáng vàng tươi chan hòa khắp chốn, tôi cảm thấy đôi mắt sáng lòa, bèn bừng tỉnh dậy sau một giấc ngủ say nồng. Tôi nghe rã rời, bải hoải toàn thân, chưa choàng dậy nổi nên nằm im, mắt mở ra rồi khép vội lại vì ánh sáng quá chói chang. Có cái gì khác lạ mới mẻ hết sức. Tôi ngạc nhiên thắc mắc tự hỏi. Sao kỳ cục vậy? Tại sao lại nằm ngủ mê man trên cát, không giường chiếu mùng mền? Đây là đâu? Rồi Duyên, Bi, Tư Trần Hưng Đạo, Út Trung, Dân gì đó, sao mất tiêu hết? Còn chiếc BL 1648 nữa? Kỳ quá, kỳ quá! Phải định thần một hồi lâu, tôi mới từ từ nhớ lại từng diễn biến của tối hôm qua. Trời đã sáng bạch. Ánh sáng chói lọi chiếu xiên qua màng mi mỏng khiến tôi không còn mê ngủ dật dựa, sật sừ.

Làn cát mịn phẳng phiu êm ái như tấm nệm dầy, khiến cái lưng khổ sở mấy ngày nay, bây giờ dễ chịu hết sức. Tôi uốn mình lăn qua lăn lại, xương sống được giãn thẳng ra, kêu rôm rốp. Toàn thân thì mỏi nhừ, nhưng tinh thần thiệt tỉnh táo, sảng khoái. Cái tàu dừa kê đầu ban tối, đã bị ai giựt lấy đi đâu mất tiêu. Đống lửa to lớn đã tàn lụi chỉ còn lại ở giữa mớ tro trắng xám. Năm ba bẹ dừa khô lăn lóc cháy xém dở dang. Một đám người đông đảo ở trần nằm ngủ la liệt xung quanh. Người nào người nấy đen thui, xơ xác như đám cầu thủ sau trận đấu kiệt sức. Cũng có vài người đã thức, mở mắt nhìn quanh ngơ ngác. Tiếng sóng rào rào bên ghềnh đá. Mùi rong rêu tanh tanh, mùi nước biển mặn nồng phảng phất trong làn gió mát ban mai.

Phải rồi, đây là đảo Dừa. Cái đảo mà thằng Dân thủy thủ đã đặt tên tối hôm qua, ghe đã ghé vào buổi sáng, bị bắn và đuổi đi. Buổi chiều phải quay trở lại rồi cả đám được lên bờ. Như vậy là tôi đã nằm ngủ ngon lành trên đất Mã Lai. Cuộc đổ bộ tuy có vài rắc rối, nhưng cuối cùng thì mọi việc đều yên ổn. Tôi mừng rỡ đứng dậy nhìn quanh. Bãi cát trắng xóa lõm vào hình vòng cung chạy tận đằng xa tạo thành một cái vịnh lớn. Núi non bao bọc xung quanh. Đảo nầy khá lớn nên núi cao xanh mờ ở tận trong xa. Cạnh mí bờ cát là những bụi dứa dại, thân cứng lớn, đầy vẩy rồng ngoằn ngoèo, rễ mọc tua tủa xuống mặt cát khô nen, lá cứng dầy, xanh um đầy gai góc. Tôi rán nhìn trên những phiến lá để tìm những tên họ trai gái yêu nhau thường được rạch bằng mũi nhọn, những chữ tên quấn quít như ở Vũng Tàu, Long Hải, Nha Trang. Tuyệt nhiên không có. Như vậy nơi đây ít người lai vãng. Cạnh bên những loại cây rừng thấp nhỏ, khô cằn mọc xen những đám cỏ tranh cao ngang đầu. Bên trong chỗ nào cũng thấy toàn là dừa. Cả một rừng dừa ngút ngàn. Cây nào cây nấy cao vút, cong queo vì gió bão.

Tôi đi lần ra bờ nước để rửa mặt. Những tảng đá màu đen huyền, màu vàng lợt, màu đỏ bầm, nằm lắp xắp trong làn nước trong vắt. Cát trắng mịn sạch trơn. Hầu như không thấy rong rêu cùng vỏ sò, vỏ hến như các bờ biển Phú Quốc, Nha Trang. Rán tìm coi chỉ thấy vài con ngôi sao nhỏ. Tôi chọn một tảng đá màu trắng ngà, ngồi lên khoan khoái đưa mắt nhìn dọc theo bờ nước. Rải rác đó đây còn trơ lại các xác ghe tàu vượt biên đến trước. Có nhiều chiếc mục nát không còn đọc được số hiệu. Một nửa lườn ghe chìm ngập trong cát bùn, nửa còn lại cây ván đen mục trơ vơ với mưa dầm nắng cháy, chờ cho tới ngày rã tan thành bùn đất. Cách đó một khoảng có vài chiếc còn mới, ván còn nguyên màu cây sao tươi xanh. Tôi đọc được hàng chữ số MH 4516, MH 4517 nét sơn còn đậm đen, kế bên là chiếc BL 1648 được cột ghịt vô gốc dừa, đáy cũng đã lún sâu trong cát, đưa cái sườn để hứng chịu những lượn sóng ngoài khơi chạy vô đập rầm rầm. Với tình cảnh như vầy, chỉ chừng vài tháng nữa là nó cũng sẽ rã tan như mấy chiếc kia, sau khi đã làm tròn phận sự đưa cả đám chúng tôi tới nơi chốn bình an. Làn nước trong trẻo mát lạnh lắp xắp ngang ống chưn, mơn man da thịt, tôi nghe khoan khoái hết sức. Tôi cúi xuống vốc nước rửa mặt, thấm cho ướt tóc. Nước đắng mặn chát. Những cọng tóc phơi nắng gió cứng còng như rễ tre được chải cho ngay hàng thẳng lối bằng năm ngón tay xòe ra làm cái lược. Tôi chợt mỉm cười, nếu với hình dáng lôi thôi lếch thếch nầy mà đi trên đường phố Sài Gòn, gặp lại người yêu cũ, chắc là mắc cỡ lắm! Cũng may trên ghe toàn người tứ xứ. Tôi rán nhìn xuống để coi cho rõ hiện tại mình ra sao, chỉ thấy cái bóng đen lung linh trên sóng nước tan loãng, ngoằn ngoèo. Ôi, chỉ mới có mấy ngày mà bao nhiêu thay đổi đột ngột như một giấc chiêm bao. Biển xa thăm thẳm. Không biết bây giờ, ba má tôi cùng những người quen thuộc, bạn bè thân yêu đang làm gì. Họ có còn nghĩ đến tôi không? Cũng không biết Việt Nam ở về hướng nào? Tôi quay qua quay lại tìm hướng mặt trời mọc. Bên trên mặt trời sáng lòa như một khối lửa vàng hực, le lói trong những đọt dừa ở tận trong sâu. Lác đác cũng có người xuống mé nước làm vệ sinh buổi sáng. Bình minh bừng dậy trên một góc đảo hoang. Tôi lửng thửng trở về chỗ cũ, chưn bước dọc theo bãi cát trong ánh nắng ban mai rờ rỡ. Mọi người sau một giấc ngủ no đầy, đã lấy lại nét tươi tỉnh. Giữa cảnh trời nước mênh mông, thiên hạ gặp lại nhau tha hồ mà cười nói, chuyện nào cũng quá dài kể đến bao giờ cho hết.

Duyên bồng Bi đứng đợi tôi dưới gốc dừa. Thằng bé ngơ ngác ngó mọi người ồn ào cười nói như phiên họp chợ bằng đôi mắt thỏ đen bóng. Vừa chợt thấy tôi xuất hiện trong đám người đông đảo, nàng mừng rỡ kêu lên:

– Ba về rồi kìa. Đi đâu mà em kiếm tự nãy giờ?

Tôi chưa kịp trả lời thì bỗng nghe Bi bập bẹ từ trong vòng tay Duyên:

– Ba... Ba!

Trời! Thằng nhỏ mới biết nói. Ngộ quá! Thằng nhỏ biết kêu ba rồi.

Tôi đứng sững lại, bụng sung sướng hồi hộp. Cái miệng nhỏ xíu với đôi môi hồng có hai cái răng cửa trắng như hai hột bắp, tiếp tục bập bẹ:

– Ba... ba... ba...

Tôi chạy a đến bồng Bi trum trủm trong hai tay. Bi còn nhỏ xíu nên nhẹ hửng. Tôi vòng hai cánh tay ôm thiệt nhẹ nhàng sợ con đau. Y như ngày đầu tiên bồng Bi, da thịt thằng bé còn mỏng như tờ giấy, tôi định hôn con mấy lần nhưng không dám vì sợ da rách.

Ôi! còn nỗi sung sướng nào lớn hơn lần đầu tiên nghe con kêu mình bằng cha. Duyên cũng mừng quính:

– Bi biết nói rồi! Mà sao nó lại kêu ba trước mà không kêu em?

Tôi cười khoan khoái, kéo nàng đến ngồi trên một thân cây dừa mục ngã nằm trên cát:

– Em ẵm nó suốt ngày, nó đâu cần phải kêu mẹ nữa. Mà cũng lạ thiệt, nó biết nói đúng vào ngày đầu tiên mình sống trên đảo vắng. Có lẽ cái số của hai cha con tôi giống nhau...

Buột miệng nói câu nầy, tôi vụt hồi tưởng lại những ngày thơ ấu. Cách đây trên ba mươi mấy năm, cũng trên một hòn đảo tư bề sóng vỗ rạt rào, tôi được sanh ra, lớn lên giữa vùng gió nắng. Trước nhà là cửa sông Dương Đông, mỗi khi chiều đến hàng đoàn ghe thuyền tấp nập nối đuôi nhau rẽ sóng ra khơi, để khi đêm về, chở hàng muôn ngàn con cá vẩy bạc, đổ vun đầy trên bãi cát. Những bà làm cá mướn tay thớt tay dao, chia nhau xẻ cá làm khô, đèn đốt sáng rực. Tiếng cười nói ồn ào vang cả một khúc sông vắng trong đêm khuya. Sau nhà là rặng núi Khu Tượng. Dải núi có hình dáng con voi nằm phủ phục xanh xanh. Phía trước là cái đầu voi to lớn với cái vòi dài ngoằn, phía sau hình dáng hai chưn sau quỵ xuống. Những sáng sớm mây mù hay những hôm trời mưa giông, đứng trên bộ ván bên cửa sổ, nhìn xuyên qua những sợi mưa giăng giăng, phong cảnh mờ ảo nên thơ như bức tranh thủy mặc. Những ngày đó tôi còn nhỏ xíu như Bi bây giờ. Căn nhà vách ván, những đêm mưa lạnh, dưới ngọn đèn dầu mờ, tôi thường nằm khoanh tròn trong lòng ba để lấy hơi ấm, tai nghe ba kể chuyện nàng Thúy Kiều với chàng Kim Trọng, chuyện Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga... Khi hết chuyện, ba thường ru ngủ bằng những câu hát, câu hò. Hình như trong bụng ba chứa đầy thơ phú. Nghe hoài, đâm thuộc hồi nào không hay. Hễ cứ mỗi lần trời mưa giông, tôi đứng kề cửa sổ nhìn mưa mà nói ngọng nghịu:

Trời mưa trời gió đùng đùng.
Cha con chú lùn đi gánh cứt heo

Tôi cũng không biết tại sao tôi thích hai câu nầy. Có lẽ hình ảnh ‘gánh cứt heo’ của hai cha con chú lùn nào đó dễ gây ấn tượng cho cái đầu óc còn quá con nít của tôi lúc đó chăng? Rồi cho đến một ngày giặc giã nổi lên, ba dắt díu vợ dại con thơ theo ghe bầu bỏ đảo về đất liền. Để rồi mất chục năm sau, cũng y như vậy, giặc đỏ chiếm lấy quê hương, tôi phải đành bồng con thơ bỏ xứ mà đi ra đảo. Sự việc cách nhau một thời gian quá dài nhưng khá giống nhau. Có lẽ phần mộ ông bà ngày xưa, chôn nhằm cuộc đất con cháu phải tha phương cầu thực chăng? Nhưng dầu sao đời tôi cũng còn may mắn. Con tôi nó còn biết gọi ba... ba. Ở nơi quê nhà biết bao nhiêu đứa trẻ ngây thơ, tiếng nói đầu đời không phải gọi ‘ba’ mà là ‘Bác’. Ôi chua xót thương đau cho những bậc làm cha mẹ, đành phải lâm vào cảnh dở khóc dở cười!

Tôi ôm chặt thằng nhỏ vào lòng cho đến khi có lịnh tập họp. Như đàn ong vỡ tổ mọi người túa ra từ khắp nơi đến sắp hàng dài theo bãi cát. Tiếng cười nói vang rân. Tôi cũng lững thững đứng dậy đi đến bên cạnh vợ chồng Tư Trần Hưng Đạo. Bầu trời hải đảo sáng nay trong xanh, vài cụm mây trắng xốp như bông gòn bay lãng đãng, nắng buổi sáng chiếu vàng tươi rực rỡ trên những đọt dừa xanh. Dưới bờ cát nước trong loang loáng nằm chen chúc những hòn sỏi đủ màu. Không khí thiệt trong lành. Cạnh một tảng đá lớn, người Trung Sĩ chỉ huy Mã Lai xuất hiện từ lúc nào. Anh ta nổi bật lên hẳn giữa đám đông có lẽ nhờ bộ quân phục ủi láng phẳng phiu, các nếp gấp còn bén ngót. Trên ngực áo là một hàng huy chương xanh đỏ, cũng vậy cái kết anh đội, thêu đầy những đường viền màu mè loè loẹt. Anh ta dáng người vừa tầm, rắn rỏi, da ngăm ngăm đen, trông có vẻ đẹp trai nhờ hàm râu mép cắt tỉa vén khéo. Đôi mắt sáng và mạnh. Tôi biết được chức vụ anh nhờ có cặp cánh gà chiên bơ trắng bệch gắn ở vai áo và nhờ ở vẻ đầy oai quyền hống hách. Trong tay lo le chiếc gậy chỉ huy ngắn, anh ta ra lệnh cho mấy người lính đứng vây quanh bằng những tiếng Mã Lai xa lạ. Họ trả lời tôi nghe được hai chữ Tăn Ku. Vậy Tăn Ku có thể là tên mà cũng có thể là chức vụ. Thôi kệ, gì cũng được. Từ nay anh đã có tên. Tên anh là Tăn Ku!

Tăn Ku ra lịnh cho chúng tôi xếp hàng tư. Thôi thì già trẻ bé lớn chen chúc nhau đứng lố nhố làm thành cái hàng người dài, quanh co như cái đuôi lân. Đám con nít chạy tới chạy lui lộn xộn quá. Đếm đi đếm lại, đếm tới đếm lui... Kết quả cũng không giống nhau! Đứng trong hàng tôi nhìn lơ đãng vào rừng dừa bên trong. Dừa mọc lộn xộn, chi chít ngổn ngang không ngay hàng thẳng lối gì cả. Chỗ nầy cây ngã qua, chỗ kia cây ngã lại. Vì quá chật chội nên chúng cố vươn lên, vươn lên nữa để đón ánh sáng mặt trời, nên cây nào cây nấy dài ngoằn cao vút. Có cây già cỗi gần rũ, trên ngọn lá rụng gần hết còn lại lưa thưa vài tàu, xơ xác như con gà chọi trụi lông. Có cây còn non mới mọc cao chừng hai ba thước. Cả một rừng dừa mọc bừa bãi, không có bàn tay vén khéo của con người nhúng vô. Xen dưới những gốc dừa là những cây dại mọc hoang um tùm. Cỏ tranh mọc cao ngang ngực. Có một con đường mòn len giữa đám cây cối xanh xanh, chạy song song theo bờ cát hướng về phía cầu tàu. Chắc là đường đi lại của tụi lính Mã Lai. Cái đồn của chúng đóng ở gần cầu. Bỗng nhiên tôi thấy trong đám cỏ tranh, có một cô gái mặc áo vàng quần trắng, ung dung bước ra, đi về hướng chúng tôi. Bóng cô thấp thoáng giữa những gốc dừa, khi ẩn khi hiện như trong chuyện liêu trai. Từ xa nhìn dáng cô đi thanh thoát, màu quần áo sáng trưng đi giữa khung cảnh cây lá hoang dại, tôi ngạc nhên lạ lùng nắm tay Duyên nói:

– Có người ở bên trong đảo. Giống như người Việt Nam...

Nói tới đó tôi chợt phát hiện thêm vài người nữa, họ đứng lấp ló trong đám cây lá um tùm. Những cặp mắt nhìn ra ngoài láo liêng. Họ có vẻ gì sợ sệt, ẩn núp, muốn nhìn mà như không dám. Đám lá cây xao động. Tôi rán nhìn kỹ thấy có những mái lều nhỏ mới dựng, mái che bằng là dừa, có mái đã ngã màu vàng, có mái còn tươi xanh. Vì lều quá thấp, bị gốc dừa che lấp nên khó thấy.

– Duyên ơi, dám có đồng bào vượt biên tới đây ở trước mình, không biết tại sao họ lại đứng lấp ló bên trong, có vẻ sợ sệt?

Tư Trần Hưng Đạo cũng theo dõi từ nãy giờ, kề tai tôi nói nhỏ:

– Ê bồ, ở giữa biển khơi hoang vắng như vầy, sao lại có một người đẹp quá, không biết Mã Lai hay Việt Nam?

Tôi trả lời anh Tư ngon lành:

– Việt Nam mình đó, chớ Mã Lai làm gì trắng trẻo duyên dáng như vậy!

Nguời đẹp đảo Dừa đã đến gần. Tôi và Tư Trần Hưng Đạo nhìn sững cô ta. Trời ơi, ở giữa chốn nước non vời vợi như vậy mà lại có một người đẹp yểu điệu thục nữ như vầy. Tay chưn nàng tròn trịa dịu nhiễu, trắng nuốt nuột nà. Gương mặt thanh tú, cặp mắt đen bóng, miệng lúc nào cũng có vẻ mỉm cười hiền dịu. Tôi kề tai Tư Trần Hưng Đạo nói nhỏ:

– Cô nầy tôi nhớ có gặp ở đâu, dáng quen quen...

Muốn chọc tôi, Tư Trần Hưng Đạo nói lớn cố ý cho cô nghe :

– Bạn hễ thấy ai đẹp là nhìn bà con liền. Thôi đi ông bạn ơi, nghèo mà ham!

Nghe hai đứa tôi đối đáp, cô ngước cặp mắt đen lay láy mà nhìn không có vẻ gì xao xuyến, chưn bước về phía Tăn Ku. Hai người có vẻ quen nhau. Cô ta nói với anh chàng nầy vài câu ngắn tiếng Mã Lai. Tăn Ku gật đầu lia lịa. Tôi ngạc nhiên hết sức. Có thể cô ta lại là người Mã Lai sao? Ở hải đảo nhiệt đới, khí hậu nóng bức sao lại có người da trắng như bông bưởi vậy được? Việt Nam hay Mã Lai? Mã Lai hay Việt Nam? Đầu óc tôi lộn xộn.

Duyên cười nhìn tôi:

– Anh hễ thấy ai đẹp, ai giỏi cũng ham lắm, quơ làm Việt Nam tuốt luốt hết. Đó cô ta rõ ràng là Mã Lai, còn khen đẹp nữa thôi?

Tôi bỡ ngỡ:

– Ờ, ờ, sao kỳ quá, anh vẫn nghi cô ta là Việt Nam... mà sao lại nói tiếng Mã Lai trôi chảy quá.

Duyên liếc xéo tôi một cái dài bằng mấy cây số:

– Nói chuyện gì nghe tức cười. Người Mã Lai mà không nói được tiếng Mã Lai trôi chảy? Vậy chắc cổ phải rán nói được tiếng Việt cho anh vừa lòng?

.

Võ Kỳ Điền
(Trích Pulau Bidong Miền Đất Lạ, Chương 11)


Cái Đình - 2018