Nguyễn Gia Thưởng


Sống và thể hiện tinh thần đa nguyên

Việt Nam, một đất nước đa nguyên, đa sắc tộc

Đảng CSVN thường lập luận cho rằng dân chủ đa nguyên sẽ đẩy đất nước vào cảnh hỗn loạn và một số người khác còn cho rằng nhận thức chính trị của người Việt chưa đủ cao để áp dụng chế độ dân chủ đa nguyên thậm chí còn quyết đoán rằng trình độ dân trí của người Việt quá thấp để có thể hiểu thế nào là dân chủ chưa nói đến đa nguyên.

Nước Việt Nam đã không may rơi vào sự khống chế của đảng Cộng Sản vì hầu hết trí thức Việt Nam trong những thập niên 1950 và 1960 say mê lãng mạn tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác Lê, xem đây là phương thuốc nhiệm màu giúp Việt Nam thoát ra khỏi ách thống trị của Pháp.

Họ không thấy chủ nghĩa cộng sản chỉ là một phương tiện giúp cho một băng đảng vô văn hóa, vô tổ quốc cướp chính quyền và áp đặt quyền lực lên đầu người dân bằng khủng bố và ám sát.

Châu Âu đã sớm nhận ra sức tàn phá của chủ nghĩa Mác Lê và kể từ năm 1989, sau khi Liên Xô tan rã, các nước Đông Âu đã thi nhau lấy lại độc lập và phục hồi lại tinh thần đa nguyên. Vì chỉ có tinh thần đa nguyên mới có thể đánh bại chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa theo mô hình nhất nguyên độc đảng.

Nói về Đa Nguyên người ta thường nghĩ đến nhiều phe nhóm, nhiều tranh cãi nhiều quyền lợi cấu xé lẫn nhau mà ít ai biết đến Đa Nguyên là một tinh thần cần được bồi đắp và xây dựng. Gần đây thế giới đã khám phá thêm những nguyên lý của Đa Nguyên để áp dụng vào đời sống xã hội và chính trị.

Thế nào là đảng chính trị

Trước khi đi sâu vào việc phân tích tinh thần Đa Nguyên tưởng cũng nên nhắc lại một câu mà chúng ta thường nghe và dùng làm khuôn mẫu trong phép hành xử chính trị đó là : Thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, để đem lại cơm no áo ấm cho người dân và xây dựng xứ sở. Người làm chính trị chắc chắn phải kinh qua giai đoạn thành ý chánh tâm tức giai đoạn xây dựng cho mình một ý thức, một hướng đi đúng đắn nhất. Sang giai đoạn tu thân cổ nhân không nói rõ phải mất bao nhiêu năm để hoàn tất. Nhưng nhìn vào thực tế, con người phải luôn luôn tu thân cho đến khi từ giã cõi đời. Như vậy phải hiểu rằng trong tiến trình tu thân có cả hai phần vừa tu thân, vừa xây dựng tổ chức.

Nhưng muốn biến ý tưởng đó trở thành hiện thực thì phải làm sao ? Để trả lời câu hỏi này có lẽ phải tìm hiểu lý do phát sinh ra những hệ thống đảng phái. Khi xác quyết sự bất đồng quan điểm và tính đa dạng của tư tưởng là những yếu tố cần thiết của cơ cấu xã hội và nhà nước, mọi người đều hiểu ngầm rằng cơ cấu chính trị của nhà nước bao gồm những thành viên của các đảng phái và cũng là nhân tố của xã hội trong lòng các tổ chức luôn có những nhóm tranh đua gay gắt với nhau. Trong ngôn ngữ chính trị người ta gọi là phe phái (factions). Nhưng phe phái làm sao biến thành đảng phái ?

Danh xưng thay đổi thì bản chất cũng phải thay đổi theo.

Danh xưng đảng xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ 18 lần đầu tiên qua bài tham luận “Thoughts on the cause of presents discontents” (một vài suy nghĩ về nguyên do những bất đồng hiện tại) năm 1770. Ông Edmund Burke khẳng định rằng các đảng không những cần thiết mà còn đáng quý trọng (respectables). Ông định nghĩa: “Đảng phái là một tập thể những cá nhân cùng chung một mục đích và lòng cam kết, kết hợp lại nhằm phát triển những quyền lợi của quốc gia trên căn bản của nguyên tắc đặc thù mà họ đều đồng ý (1). Ông Burke đã phân biệt rõ rệt đảng phái và phe phái theo ông phe phái biểu tượng cho một cuộc chiến tranh một cuộc tranh giành nhỏ mọn và tham lam mong tìm kiếm địa vị và bổng lộc trong khi đảng phái là những mối dây liên kết đáng kính (honorable connections).  Việc chuyển hoán từ giai đoạn phe phái sang đảng phải hàm chứa tinh thần Đa Nguyên. Các đảng phái phải được xem là thành phần của một tổng thể bao gồm những thành tố tích cực của xã hội. Chính vì vậy độc đảng đi ngược với lại tinh thần Đa Nguyên. Đa nguyên và đa đảng phát sinh cùng một lúc. Các đảng phái là sản phẩm của Đa Nguyên vì Đa nguyên cho phép sự hình thành của các đảng chính trị.

Tại Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiêu diệt hết các đảng để trở thành đảng duy nhất cầm quyền. Đảng Cộng sản không có khả năng thể hiện tinh thần phục vụ của một đảng chính trị theo đúng ý nghĩa của nó, do đó đã đưa dân tộc Việt Nam vào sự kém cỏi đáng lý không thể có vì tinh thần bao dung của người Việt. Ngày nay khi sử dụng danh từ đảng người ta nghĩ ngay đến đảng cộng sản với tất cả những sự tàn ác của nó trong quá khứ và ngay trong hiện tại. Danh từ Đảng dưới nhãn quan của người Việt mang một ý nghĩa xấu. Ngày nay khi đề cập đến chữ đảng người ta thường đồng hóa nói với những thủ đoạn bẩn thỉu của đảng Cộng sản như gây áp lực, đe dọa, ám sát, thủ tiêu những ai không theo đường lối của họ. Chúng ta cần phục hồi lại ý nghĩa nguyên thủy tốt đẹp danh từ đảng mà ông Burke đã dành cho nó. Đảng là một bước cần thiết để kết hợp những con người cùng chia sẻ mục đích chung thực hiện cương lĩnh của tổ chức.

Đa Nguyên trên bình diện tư tưởng, xã hội và chính trị

Nếu hiểu đa nguyên là nhiều, nghĩa là hơn một, thì chúng ta đã tự giới hạn sự hiểu biết của mình. Cần phân biệt Đa Nguyên trên 3 bình diện :

Thứ nhất - Tinh thần Đa Nguyên

Phong cách văn hóa đa nguyên là phong cách thế quyền đối nghịch với phong cách thần quyền. Đã là thế quyền thì không thể nào nhất nguyên được.

Phong cách văn hóa thần quyền thì ngược lại, nó hàm chứa một chân lý duy nhất, mang tính nhất nguyên. Phong cách đa nguyên dựa trên tinh thần bao dung. Đa Nguyên chủ trương đa dạng thay vì đồng dạng, bất đồng thay vì đồng nhất, thay đổi thay vì ù lì. Đa Nguyên tôn trọng sự đa dạng của những nền văn hóa khác biệt nhưng không nhất thiết tạo thêm những những dị biệt mới. Đa Nguyên hỗ trợ và bảo tồn một xã hội mở không khép kín. Đa Nguyên giữ gìn sự ổn định không tạo hiềm khích giữa các nền văn hóa.

Tinh thần Đa Nguyên đòi hỏi một sự tương kính hỗ tương vì nó phát xuất từ tinh thần bao dung do đó đối nghịch hoàn toàn với tinh thần nhất nguyên (mang tính bất bao dung, không công nhận hay hận thù sự khác biệt thêm vào đó là sự ngạo mạn tự xem mình vượt trội trên hết mọi nếp tư duy, mọi văn hóa khác).

Tinh thần Đa Nguyên cố gắng tạo cơ hội phát triển đồng đều cho mọi người, cho mọi thực thể (entité), biết tự trọng và có tinh thần tương kính hỗ tương nghĩa là không có tình trạng Thập Nhị Sứ Quân, mạnh được yếu thua, được làm vua thua làm giặc khi áp dụng vào thực tế.

Sự tách biệt văn hóa và kỳ thị văn hóa dẫn đến bộ tộc hóa nghĩa là thu nhỏ và biến văn hóa của cả một nước thành văn hóa của riêng một bộ tộc mình. Sự kiện này đã diễn ra khi đảng Cộng Sản bắt mọi thành phần xã hội phải theo chế độ xã hội chủ nghĩa, đi ngược với tinh thần Đa Nguyên.

Đa Nguyên tạo nên sự hài hòa giữa các thành phần trong xã hội nên không thể có sự hỗn loạn như đảng CSVN vẫn thường rêu rao.

Chính đảng cộng sản cầm quyền hiện nay đang ngụy biện cho rằng đa nguyên dẫn đến hỗn loạn để duy trì chế độ độc đảng bảo vệ quyền lợi của thiểu số cầm quyền, bất chấp và chà đạp quyền lợi của những tầng lớp xã hội Việt Nam. Chính những bất công này sẽ là mầm mống của một cuộc nổi dậy do chính đảng cộng sản gây nên.

Những nước cộng sản Đông Âu đã thi nhau tan rã mà không có một giọt máu nào đổ ra, không hề có sự trả thù nào cả. Vì họ đã thấm nhuần tinh thần đa nguyên.

Thứ hai - Đa Nguyên trên bình diện xã hội

Khi áp dụng đa nguyên vào xã hội không nên nhìn những thứ bậc giai cấp hoặc đẳng cấp là do đa nguyên sản sinh. Trên thế giới này không thể nào có được một xã hội trong đó tất cả mọi thành phần đều thực sự bình đẳng với nhau, ngoại trừ trong những tiểu thuyết hoang tưởng. Không phải xã hội nào cũng có đa nguyên, tất cả mọi xã hội đều có sự phân chia và luôn có bất bình đẳng. Tinh thần đa nguyên tìm cách giảm thiểu những bất bình đẳng đó. Đa Nguyên không phải là một danh từ dùng để thay thế “sự phức tạp của cơ cấu” (complexité structurelle) nó là mô hình đặc biệt của cơ cấu xã hội.

Một xã hội bị phân chia ra thành từng mảnh nhỏ không phải là một xã hội đa nguyên. Xã hội Đa Nguyên gồm nhiều hiệp hội đa dạng nhưng những hiệp hội này phải được thành lập theo tinh thần tự nguyện nghĩa là không có sự ép buộc hay thừa kế và nhất là không có tính biệt lập. Những hiệp hội đa dạng này có tính cởi mở, tiếp nhận những khuynh hướng khác biệt nghĩa là có sự liên đới phụ thuộc (interdépendant), phụ thuộc lẫn nhau. Một xã hội đa nhóm (multigroupe) là một xã hội đa nguyên. Nhưng những nhóm này không được tạo dựng một cách máy móc trong sự cưỡng ép dù dưới bất cứ hình thức nào, hiểu như vậy thì cách tổ chức của các xã hội Phi Châu hiện nay không phải là một xã hội đa nguyên và hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ không phải là một hệ thống xã hội Đa Nguyên.

Sự thiếu vắng giao lưu văn hóa là một tiêu chuẩn để đo lường tinh thần Đa Nguyên của xã hội đó. Tất cả những xã hội xây dựng chung quanh ý niệm bộ tộc. Sắc tộc, đẳng cấp tôn giáo hoặc bất cứ nhóm nào mang tính cách truyền thống đều không được coi là những xã hội Đa Nguyên.

Đa Nguyên chỉ được thực hiện khi những lằn ranh phân chia các cộng đồng dưới bất cứ hình thức nào trong một nước không còn nữa. Khi hố ngăn cách giữa các thành phần xã hội ngày càng sâu rộng một số thành phần xã hội đó sẽ tìm cách kết hợp với nhau trên căn bản sắc tộc tôn giáo hoặc ngôn ngữ và tìm cách áp đặt quyền lực của mình trên những thành phần khác: Lúc đó xã hội Đa Nguyên mất đi bản thể nhường chỗ cho những thế lực cực đoan chiếm dần ưu thế để trở thành nhất nguyên. Chủ trương chỉ có dân tộc ta là nhất, đứng trên mọi chủng tộc khác như thời Đức Quốc xã của Hitler đưa đến phong trào hủy diệt dân Do Thái. Chủ trương chỉ có tôn giáo ta là duy nhất đưa đến những cuộc thánh chiến khốc liệt nhất đến nay vẫn chưa dứt. Nước Iran là một vị dụ nhà nước thần quyền rõ ràng nhất.

Thứ ba - Đa nguyên trong lĩnh vực chính trị

Trong lãnh vực này tinh thần Đa Nguyên hàm chứa một sự phân quyền dựa trên căn bản đa dạng của những nhóm độc lập nhưng không biệt lập. Xin nhắc lại nhờ tinh thần đa nguyên chính trị mà các phe phái đã trở thành những đảng phái với tất cả ý nghĩa tốt đẹp đó. Triết lý Đa Nguyên ảnh hưởng đến thỏa hiệp và tranh chấp. Khi một cuộc tranh chấp biến thành một cuộc chiến, tinh thần Đa Nguyên không còn được tôn trọng nữa. mọi cuộc tranh luận chấm dứt nơi đây. Trọng điểm của thế giới đa nguyên là đi tìm những đồng thuận giữa những quan điểm bất đồng và thỏa hiệp giữa những xung đột quyền lợi.

Tương quan giữa tinh thần đa nguyên và nguyên tắc đa số (majority rule) cũng cần minh định lại. Đa Nguyên từ chối và không chấp nhận sự áp đảo và tính độc đoán của đa số. Điều này không có nghĩa là từ bỏ nguyên tắc đa số trong việc thi hành và ban hành quyết định, một tiêu chuẩn trong sinh hoạt dân chủ. Đa Nguyên bảo đảm nguyên tắc đa số giới hạn nghĩa là đa số phải tôn trọng thiểu số như vậy quyền lực của đa số nằm trong giới hạn của tinh thần đa nguyên.

Đa Nguyên ngay từ ban đầu tách biệt thế giới thế quyền và thần quyền để không ai có toàn quyền sinh sát trên người dân. Với thời gian những giới hạn này ngày càng quan trọng hơn nhường chỗ cho những tranh đấu chính trị ôn hòa đảm bảo tính mạng và tài sản của những người tranh chấp. Nói cách khác kẻ thua cuộc có thể an tâm về nhà mà không sợ bị ám hại.

Tinh thần bao dung, giao ước thỏa thuận và các cộng đồng

Muốn hiểu tinh thần Đa Nguyên cũng cần phải hiểu tinh thần bao dung, tinh thần thỏa hiệp, sự bất đồng và sự xung đột. Tinh thần bao dung (tolérance) không cho phép chúng ta có thái độ thờ ơ lãnh đạm vì sẽ không có phản ứng. Nhưng bao dung không phải là ba phải chấp nhận dễ dàng những sai lầm không căn cớ. Ông J.R. Lucas giải thích như sau: “Tinh thần bao dung luôn ở thế căng thẳng và không thể nào toàn diện được khi một người đã bám víu vào một điều gì người đó sẽ cố gắng tìm cách thực hiện điều đó nếu không chúng ta không tin người đó. Nhưng người đó cũng không tìm cách thực hiện điều này bằng mọi cách với bất cứ giá nào”. (2)

Như vậy bao dung có thể co giãn đến mức độ nào? Có ba tiêu chuẩn để xét mức độ chịu đựng của bao dung. Thứ nhất là phải tìm ra những nguyên do dẫn đến bất bao dung nghĩa là không cho phép giáo điều (dogmatisme) vì giáo điều luôn luôn bất bao dung. Thứ hai là nguyên tắc không được hãm hại nghĩa là không dung túng những hành động gây thiệt hại và dị hại đến người khác. Thứ ba là sự hỗ tương tinh thần có qua có lại vì khi bày tỏ tinh thần bao dung ai cũng mong đợi đối tác cùng hành xử tương tự như vậy. (3)

Về những giao ước hay những thỏa thuận chúng ta có thể nhận diện rõ rệt đây là một sự tiếp nhận đơn giản, một đồng thuận có ý thức, không phải là một sự tán đồng hay hỗ trợ tự nhiên. Đây là một sự chia sẻ dưới hình thức này hay dưới hình thức khác nhằm tạo lập một sợi dây liên kết. Định nghĩa này biểu hiện rõ mối tương quan giữa ý niệm thỏa thuận và ý niệm cộng đồng. Cộng đồng cũng có thể được định nghĩa như một sự chia sẻ qua hình thức này hay hình thức khác để tạo nên một mối dây liên kết. Ngày nay chúng ta không thể định nghĩa đơn vị chính trị bằng danh từ Nhà nước - Quốc gia.

Phải trở về đơn vị nguyên thủy có trước sự hình thành của những cơ cấu xã hội chính trị đơn vị đó chính là cộng đồng mặc dù Nhà nước - Quốc gia vẫn là một yếu tố quan trọng. Nó được tạo lập vào thế kỷ thứ 19 và nó là nguyên tắc tổ chức và thống nhất quốc gia ngày nay đặc biệt là tại Châu Âu. Những quốc gia vào thời trung cổ phần đông được cấu tạo trên cơ cấu ngôn ngữ. Quốc gia Đức bao gồm những ai nói tiếng Đức và cứ như thế mà quốc gia được phân định. Nhà nước - Quốc gia là một ý niệm được tạo dựng vào thời cực thịnh của phong trào Lãng Mạn (romantisme) và được coi là một thực thể không chỉ giới hạn ở yếu tố ngôn ngữ. Trong hình thức trọn vẹn của nó, ý niệm Nhà nước - Quốc gia (Etat - Nation) là một thực thể hữu cơ thể hiện qua tinh thần dân tộc được thấm nhuần bởi tinh thần ái quốc và hơn thế nữa, trong hình thức cực đoan của nó, được thể hiện qua huyết tộc, qua liên hệ sắc tộc. Trên căn bản này, quốc gia biến thành chủ nghĩa quốc gia. Những Nhà nước - Quốc gia xuất hiện ở Châu Âu trong những năm 1830 và 1848 đã tự xác định vị trí của mình qua yếu tố ngôn ngữ và lòng ái quốc. Quốc gia là một ý chí thể hiện tinh thần độc lập thay thế cho những tập hợp quy tụ xung quanh một lãnh chúa hay một triều đại. Với sự thành lập của Nhà nước - Quốc gia, việc chuyển nhượng “nhân dân” hay “dân tộc” được xem như những thành phần thua cuộc hay là tôi tớ của một vương chúa không thể xảy ra nữa.

Ngày nay Nhà nước - Quốc gia không còn là yếu tố được bảo tồn như một đơn vị tối ưu về địa lý chính trị (géopolitique) và nó đang tan biến ngay trong nội bộ một nước cũng như trên phương diện toàn cầu. Ý niệm “cộng đồng quốc gia” càng suy yếu bao nhiêu người ta cần phải trở về ý nghĩa nguyên thủy của một cộng đồng. Khi một siêu cơ cấu một quốc gia, một đế quốc hoặc một triều đại sụp đổ người ta thường trở về cơ cấu nguyên thủy của một cộng đồng trong đó người ta dễ dàng kết hợp lại với nhau để được hòa nhập (appartenance) thì vai trò và chỗ đứng của Nhà nước Quốc gia bị công phá từ mọi phía và vì Việt Nam chưa xây dựng xong một quốc gia đúng nghĩa, quan niệm về đất nước phải như thế nào? Chúng ta phải xem đó là một không gian liên đới giữa những con người hiểu nhau quý trọng nhau hợp tác với nhau để xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Một cách ngắn gọn Việt Nam phải là đất nước xây dựng trên các cộng đồng.

Thứ tư - Việt Nam đã có Đa Nguyên chưa?

Hiện nay chính quyền Việt Nam dưới sự lãnh đạo (có lẽ là cuối cùng của đảng CSVN) của ông Nguyễn Phú Trọng đang làm nhiều cố gắng để chứng tỏ với thế giới bên ngoài rằng Việt Nam là một nước độc đảng không cần đa nguyên. Ông Trọng quên rằng trước khi đảng cộng sản Việt Nam ra đời, Việt Nam đã từng là một nước đa nguyên vì Việt Nam đã có 54 sắc tộc chung sống trên mảnh đất chữ S một cách hài hòa xuyên nhiều thế kỷ (4). Nhà nước Cộng sản Việt Nam đại diện cho cộng đồng người kinh đang thi hành chính sách đồng hóa và ép buộc các sắc tộc ít người phải từ bỏ tập tục tập quán và những nét văn hóa đặc thù của mình để họ phải theo một khuôn mẫu có tính cách giáo điều của cái gọi là xã hội chủ nghĩa. Điều này hoàn toàn đi ngược lại với tinh thần Đa Nguyên. Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã và đang tạo nên những mầm mống chia rẽ một ngày một trầm trọng trong các cộng đồng, nhân tố cấu tạo đất nước Việt Nam. Chính vì chủ trương giáo điều và từ đó phơi bày tính chất bất bao dung nên đảng cộng sản Việt Nam đã và đang gây nên những hận thù giữa các cộng đồng. Khắc phục những di hại do Đảng Cộng sản để lại là trọng trách nặng nề của thể chế dân chủ đa nguyên tương lai của Việt Nam.

.

Nguyễn Gia Thưởng

__________________

Ghi chú:

(1) “Party is a body of men united for promoting by their joint endeavours the national interest, upon some particular principle in which they are all agreed”. Trích The Works of Edmund Burke, Boston, Little Brown, 1839, Vol 1, p. 425-426, www.econlib.org.

(2) The Principles of Politics, J.R. Lucas, Oxford, Clarendon Press, 1985, p 296-301

(3) Pluralisme, Multiculturalisme et Etrangers, Giovanni Sartori, Editions des Syrtes, 2003.

(4) Vietnam, pays pluri-ethnique et pluri-culturel, Nguyễn Văn Huy et Lưu Hùng (trích tập san “Vietnam-Art et Cultures de la préhistoire à nos jours” (Việt Nam, Nghệ thuật và Văn hóa từ thời tiền sử đến nay) phát hành trong cuộc triển lãm do các Viện Bảo tàng Nghệ Thuật và Lịch sử tổ chức từ ngày 17/12/2003 đến 29/2/2004


Cái Đình - 2018