Nguyễn Dư


Hú hồn! Hú vía!

.

Còn nhớ lần nghe ông bạn kể chuyện đi chơi... Nào ăn uống, nào thăm viếng...

– Về thăm Hà Nội lần này bị một cú... hoảng hồn.

– Chuyện gì vậy?

– Buổi sáng, đi dạo phố Hàng Đào, đang mải ngắm mấy cô bé cười đùa chẳng may vấp phải quang gánh của một bà bán hàng rong. Suýt ngã. Mình chưa kịp mở miệng trách bà ta ngồi chiếm vỉa hè dành cho người đi bộ thì bà ta đã oang oang:

– Đi đâu mà ghếch mắt lên như thằng mù vậy. Chỗ rộng như thế kia mà không thèm bước qua, lại đâm vào chỗ kiếm ăn của người ta cho bằng được. Sáng ra ngõ gặp con vô duyên, bây giờ lại đụng phải thằng hãm tài. Buôn với bán như thế này thì làm sao mà khá được. Ngữ này thì chỉ còn nước...

Vừa nói bà ta vừa móc ra một mảnh giấy, quẹt diêm đốt. Vừa đốt vừa lầm bầm. Chẳng biết có phải đang chửi mình không? Rồi bà ta quăng mảnh giấy đang cháy về phía mình đứng. May mà nhanh chân tránh kịp, cứu được cái quần. Hú hồn!

Bị mụ bán hàng phóng hoả, tôi bực mình tung bửu bối ra đỡ:

– Bà chờ tôi mời công an đến giải quyết.

Thế là cái loa phóng thanh lập tức bị tắt tiếng. Mụ ta thu xếp quang gánh, chuồn cho mau.

– Ông có biết cái trò đốt giấy này là cái gì không?

– Bà ấy đốt vía ông đấy.

***

Nhân chuyện ông bạn sợ hú hồn, bị đốt vía, mời các bạn cùng ngồi bàn chơi về hồnvía của tín ngưỡng dân gian.

Hồn, vía được Từ điển truyện Kiều của Đào Duy Anh định nghĩa ngắn gọn:

Theo quan niệm của Đạo giáo thì phách hay vía là phần tinh thần của người phải phụ vào xác mới tồn tại, khi người chết thì tan đi, còn hồn là phần tinh thần không có xác vẫn tồn tại được. Theo quan niệm thông thường thì có người vía xấu, có người vía tốt.

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê dùng ngôn ngữ thời thượng hơn:

Hồn là thực thể tinh thần mà tôn giáo và triết học duy tâm cho là độc lập với thể xác, khi nhập vào thể xác thì tạo ra sự sống và tâm lí của con người.

Vía là yếu tố vô hình phụ vào thể xác mà tồn tại, được coi là tạo nên phần tinh thần của mỗi người, khi người chết thì cũng mất đi (khác với hồn, độc lập với thể xác), theo quan niệm duy tâm của người xưa.

Nói tóm lại, mọi người bình đẳng trước Hồn, vía. Từ anh Hồng mao đến chú Bạch quỷ, từ bác dân đen đến ông con trời, ai cũng có thể xác và hồn, vía. Lúc chết thì thể xác bị tiêu diệt, vía mất đi, nhưng hồn thì vẫn tồn tại ở đâu đó.

Tuy nhiên, văn chương bình dân và cả văn chương bác học dường như không hoàn toàn đồng ý với định nghĩa của hai bộ từ điển...

Thương thay thập loại chúng sinh
Phách đơn hồn chiếc lênh đênh quê người

Gặp cơn mưa nắng giữa trời,
Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Mỗi người một nghiệp khác nhau,
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Cho hay thành bại là cơ
Mà cô hồn biết bao giờ cho tan. (Tế thập loại chúng sinh)

Bài Tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du cho biết hai điều là khi người ta chết thì vía (hay phách) vẫn còn và hồn có thể bị tan đi.

Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Văn Thành, Phan Bội Châu cũng đồng ý là chết rồi phách (hay vía) vẫn còn:

Than ôi!
Dòng nước chảy về đâu, biết có về Đông hải vậy chăng?
Hồn phách chị ở đâu, biết có về Đông hải vậy chăng? (Nguyễn Hữu Chỉnh, Văn tế chị)

Hồn phách đâu đều ngày tháng Thuấn, Nghiêu;
Hài cốt đó cũng nước non Thang, Vũ.(Nguyễn Văn Thành, Tế trận vong tướng sĩ)

Dân sở tại hồn xiêu phách rụng, giọt khả bi chưa ráo cạnh sông dài.
Khách qua đường mắt rát gan mềm, thây bất hạnh còn phơi bên núi dốc. (Phan Bội Châu, Văn tế đồng bào bị nạn bão lụt ở Bình-Phú)

Giang sơn, đất nước Việt Nam cũng có hồn như người Việt Nam:

Hồn xưa dòng dõi Lạc Long,
Con nhà Nam Việt người trong giống vàng.
(...) Hỏi xem hồn ở gần xa,
Gọi ra cho tỉnh, tỉnh ra thì về.
(...) Than ôi hồn nước ta ơi!
Tỉnh nghe ta gọi mấy lời đồng tâm. (Chiêu hồn nước)

Hồn, vía của các bà, các cô dường như có ảnh hưởng nhiều đến đời sống... kinh tế:

Hương hoa hôm sớm phụng thờ
Cô nào xấu vía có thưa mối hàng. (Kiều)

Nơi tiếp đón khách làng chơi, cô nào có vía xấu thì bị ế khách, khó kiếm ăn.

Nàng thì bằn bặt giấc tiên
Mụ thì cầm cập mắt nhìn hồn bay (Kiều)

Kiều bị ngất xỉu, Tú Bà sợ... hồn vía bay lên mây. Tú Bà lo sợ mất toi cái mỏ vàng vừa đăng kí, chưa kịp khai thác.

Hương trời đắm nguyệt say hoa
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình (Cung oán ngâm khúc)

Cung nữ của vua đẹp như ca sĩ, diễn viên mới đi sửa sắc đẹp. Tây Thi, Hằng Nga ăn nhằm gì!

Truyện Hồn phách Trương Ba, xương da hàng thịt cũng cho thấy cả hồn lẫn phách (hay vía) vẫn còn sau khi chết.

– Trương Ba là một tay chơi cờ giỏi nổi tiếng. Lúc chết được Đế Thích giáng trần "vận chuyển pháp thuật thần thông, thu hồn phách Trương Ba nhập vào xác người hàng thịt, một lúc thì sống lại". (1)

Người xưa tin rằng khi bị hoảng sợ, kinh động mạnh, thì hồn vía có thể lìa khỏi thân xác. Sợ như vậy được gọi là sợ hoảng hồn, sợ mất vía, sợ hồn vía lên mây, sợ hết hồn hết vía, hay sợ... hú hồn! hú vía!

Từ điển Hoàng Phê giải thích Hú vía là sợ hoảng hồn trước một nguy hiểm bất ngờ (nhưng nay đã thoát khỏi). Hú vía còn có nghĩa là may hết sức (đã thoát khỏi nguy hiểm bất ngờ).

Hú hồn! Hú vía! cần được bàn thêm để tránh hiểu lầm. 

Người bị hoảng sợ đến độ mất hồn, mất vía có thể bị mê man, bất tỉnh. Phải có người hú hồn, hú vía để gọi hồn vía về nhập vào thân xác thì mới tỉnh lại.

Sợ hú vía nghĩa là sợ mất vía và đã được hú vía cho tỉnh lại.

Tục hú hồn, hú vía

– Khi (cha hay mẹ) tắt hơi thì phải lấy một cái khăn hay một tờ giấy để phủ trên mặt, khiêng xác đặt xuống đất rồi lại khiêng lên giường, có ý để cho người chết hấp thụ sinh khí của đất may ra có sống lại được. Đoạn  một người cầm cái áo của người chết, tay tả cầm cổ, tay hữu cầm lưng, do đường trước trèo lên mái nhà để gọi tên và hú hồn người chết ba lần, rồi do đường sau nhà mà xuống, đó là lễ phục hồn. (2)

– Khi cha hay mẹ chết thì gia đình làm lễ chiêu hô, tức là hô to để gọi hồn vía người chết. Người con trai cầm cái áo của người chết, tay trái cầm cổ áo, tay phải cầm vạt lưng áo, leo lên mái nhà do đường trước, gọi lên ba lần Ba hồn bảy vía cha đâu về với con hoặc Ba hồn chín vía mẹ đâu về với con. Gọi xong, leo xuống bằng lối đằng sau, bước vào treo chiếc áo trên cửa.

Sau chiêu hô, con cháu cử hành lễ chiêu hồn để hồn phách người chết về hưởng sự cúng bái, tế lễ của con cháu. (3)

– Người con cầm cái áo của người mất mới thay, trèo lên mái nhà hú vía ba tiếng, có ý còn mong cho người sống lại, rồi lấy áo ấy phủ lên thây. (4)(5)

Theo Dumoutier thì hú hồn xong, người con leo xuống đặt chiếc áo lên thây, hoặc treo lên ỷ thờ. (6)

Sơn Nam cho biết (trong Nam):

Một tục lệ chẳng còn thấy nữa là ở miền quê, có người lấy cái áo của người quá cố cầm trong tay, trèo lên nóc nhà mà kêu hú ba hồn chín vía (đàn bà) hoặc ba hồn bảy vía (đàn ông). Việc làm chiếu lệ để may ra, hồn vía người quá cố tạm thời "rong chơi" đâu đó có thể trở vào xác, làm sống lại cái tử thi đã lạnh. (7)

Tranh Oger có tấm Hú hồn nhập quan, vẽ chung hai nghi thức Hú hồnNhập quan. Chữ Hú của tên tranh được viết bằng chữ Hán (Hú nghĩa là ấm áp).

Hú hồn nhập quan

Tục đốt vía

Đào Duy Anh cho biết có vía xấu, vía tốt. Dân gian gọi là vía dữ, vía lành.

– Người ta tin rằng gặp người có vía dữ, cũng như gặp vía các thần linh hoặc ma quỷ có thể là nguồn gốc của bệnh tật.

Trẻ sơ sinh khi có người dữ vía tới thăm thì khóc không thôi, có khi phát sốt, phát nóng.

Trong trường hợp này, người nhà phải đốt vía, dùng lá nón mê, chổi cũ đốt, vừa đốt vừa đọc câu chú đuổi vía dữ. Đốt vía xong, đứa trẻ sẽ hết khóc hoặc nếu có sốt nóng cũng sẽ khỏi. (8)

– Ta tin rằng sinh ra có thể xác thì có hồn vía, đàn ông ba hồn bảy vía, đàn bà ba hồn chín vía. Khi quá sợ hãi bất thần như bị ngã, bị kinh động... đứa trẻ có thể mất vía, hoá ra ngớ ngẩn, và lúc ngủ hay giật mình. Phải làm lễ chuộc vía. Tuỳ theo trai hay gái, bổ một quả trứng gà luộc ra làm 7 hay 9 miếng với 7 hay 9 lõn cơm đem đến nơi đã xảy ra kinh hoảng, hú vía đứa bé, rồi cho nó ăn trứng với cơm ấy, nếu nó còn bé mọn quá thì nhai mớm cho nó. (9)

– Trẻ con ngã bị kinh động, lấy một quả trứng gà luộc chín cắt làm bảy miếng (nếu là bé gái thì cắt làm chín miếng), nắm bảy nắm cơm (chín nắm cơm nếu là bé gái), gọi tên đứa bé để chiêu hồn, rồi đem trứng và cơm cho ăn thì khỏi. (10)

– Theo Dumoutier thì khi một đứa bé bị ngã, người ta cho rằng nó bị bà mụ bỏ rơi, không bảo vệ. Phải làm lễ cúng (mụ) bằng 7 quả trứng và 7 nắm cơm nếu là con trai hay 9 quả trứng và 9 nắm cơm nếu là con gái, đặt xuống đất, chỗ đứa bé bị ngã. (11)

– Con trẻ mà đau thì hoặc vì gặp người xấu vía quở (như khen đẹp, khen béo), hoặc vì ngã mà mất vía, thì cha mẹ phải lễ bà mụ hay là hú vía cho nó. (12)

– Những người đi buôn bán làm ăn, ra ngõ gặp người vía dữ sẽ gặp những sự khó khăn và kém may mắn. Người vía dữ mua mở hàng cho một người bán hàng, người này sẽ ế hàng và cũng phải đốt vía.

Muốn đốt vía người ta thường dùng chổi cũ hoặc nắm lá gồi, đốt lên soi chung quanh gánh hàng đang bán, vừa soi vừa nói: Đốt vía đốt van, vía lành thì ở, vía dữ thì bước!

Người ta soi đi soi lại hai ba lần, nhắc lại câu nói trên cũng chừng ấy lượt rồi đem vứt cây chổi hoặc nắm lá ra xa. Nếu không có chổi hay lá gồi, có thể dùng một nắm giấy rách hoặc giẻ cũ đốt vía cũng được. (13)

– Người buôn bán tin rằng nếu gặp khách hàng đầu tiên có vía xấu, mặc cả nhưng không mua gì cả, thì các khách hàng tiếp theo sẽ bắt chước không mua.

Phải đốt vía bằng cách lấy cái nón lá, cắt bảy miếng nhỏ nếu khách là đàn ông, hoặc chín miếng nếu là đàn bà, đem đốt. Vừa đốt vừa khấn: Đốt vía, đốt van, đốt thằng rắn gan, đốt con rắn ruột, lành vía thì ở, dữ vía thì đi.

Kẻ cướp mê tín dị đoan có thể giết người đầu tiên chúng gặp trên đường đi "hành nghề". (14)

Hú vía cho con

Tục gọi hồn

Gọi hồn, một biến thể của đạo Lão,khác hú hồn.

Những nhà có người mới chết, thương xót nhớ tưởng muốn tìm cách gặp hồn người thân để hỏi han về cuộc sống ở cõi âm, hay mời cô hồn về nhà gọi hồn.

Cô hồn cũng hơi tương tự như đồng cốt, ở chỗ một âm hồn nhập vào cốt một người trần và mượn miệng người trần này, tức là cô hồn, để nói lên ý muốn của âm hồn.

Gọi hồn phải đặt quẻ bằng một cơi trầu và mấy đồng tiền. Món tiền này chính là tiền thù lao cho cô hồn.

Cô hồn thắp hương đặt lên cơi trầu, đoạn bưng cơi trầu trong có đặt tiền quẻ, nâng ngang trán khấn khứa ông Chiêu bà Dí để hai vị linh thần này xuống âm phủ tìm âm hồn người chết về.

Một lát sau, âm hồn về nhập vào cô hồn kể lể, khóc lóc, tả oán tình li biệt. Lúc ấy mọi người xúm vào hỏi han hồn. Hồn sẽ tuỳ theo câu hỏi mà trả lời (...).

Có nhiều người muốn thử thách cô hồn, thay vì gọi hồn người chết, người ta đã gọi hồn người sống, những người vắng mặt và có khi cả những người có mặt (...). (15)

Khoảng năm 1621, Cristoforo Borri được chứng kiến một cuộc gọi hồn tại Quy Nhơn.

Nguyên do là một hôm quan trấn thủ Quy Nhơn cưỡi voi đi săn, bị cảm nắng. Buổi chiều ông bắt đầu lên cơn sốt. Hôm sau ông bị mê sảng. Bệnh tình kéo dài được một tuần thì ông chết.

Gia đình ông mời ông sãi (onsaij) làm lễ gọi hồn. Ông sãi niệm chú, làm phép, gọi hồn quan trấn thủ về nhập vào người thân. Mọi người mong chờ được hồn nhập nhưng rốt cuộc hồn "chọn" cô em gái vốn được quan trấn thủ yêu mến nhất để nhập.

Khi hồn nhập thì có nhiều dấu hiệu làm mọi người ngạc nhiên như:

"Cô em đã già yếu, đi đứng phải chống gậy, bỗng nhún nhảy nhanh nhẹn như một cô gái trẻ, chiếc gậy cô tung lên trên không cứ lơ lửng trong suốt thời gian cô được hồn nhập. Cô nói năng bằng một giọng hăng say, tức tối, kèm theo nhiều cử chỉ khiếm nhã, cô nói nhiều điều bậy bạ về chỗ ở và "đời sống" của hồn ông anh. Những lời nói lung tung được chấm dứt khi hồn ông anh thoát khỏi xác cô.

Cô ngã bịch xuống đất trong tình trạng dở sống dở chết. Cô bị kiệt sức, không đi lại được trong suốt tám ngày". (16)

Đoạn văn kể cuộc gọi hồn của Borri trước đây đã được Durand trích dẫn và mới đây được Nguyễn Thị Hiệp dịch sang tiếng Việt.

Nguyễn Thị Hiệp dịch onsaij là thầy cúng. Lúc em gái quan trấn thủ được hồn nhập thì "Dưới sự kinh ngạc của những người có mặt, cô này bỗng nhiên nhảy nhót với nhiều tư thế khác nhau giống như một cô gái trẻ, vứt gậy, nhảy lên không trung trong suốt thời gian bị hồn nhập...  ". (17)

Ông sãi là từ cổ, sau này được gọi là thầy phù thuỷ, pháp sư.

Truyện Phạm Công Cúc Hoa có đoạn  :

Phạm Công nước mắt dòng dòng
Khấn trời thấm thía nguyện cùng cho cha
Một mình làm sãi trừ ma
Vừa thầy địa lí, chủ gia một mình

Phạm Công làm ma cho cha, tự đứng ra đảm nhận công việc của ông sãi, thầy địa lí.

Tục gọi hồn ngày nay vẫn còn. Cô hồn bây giờ được gọi là nhà ngoại cảm. Công việc chính của nhà ngoại cảm là tìm mộ liệt sĩ. Họ "gọi hồn" liệt sĩ, được hồn mách bảo, hướng dẫn đi đến địa điểm ngôi mộ.

Các nhà ngoại cảm Việt Nam đã tìm được cả ngàn ngôi mộ liệt sĩ. (18)

Gọi hồn

***

Mỗi người chỉ có một hay có nhiều hồn, vía?

Ngày xưa, dân gian nói rằng: Đàn ông, con trai có ba hồn, bảy vía. Đàn bà, con gái có ba hồn chín vía. Ngoài ra, có khá nhiều phương thuật dùng số bảy, số chín như:

– Đẻ con được ba, bốn ngày, sản phụ dùng bảy chiếc lá mít (nếu là con trai) hay chín lá (con gái), lấy nước luộc chín, dùng nước này lau và xoa bóp vú, rồi lấy lược chải vú theo chiều từ trên xuống dưới. Làm như vậy sẽ có nhiều sữa.

– Sinh ra được bảy ngày (con trai) hay chín ngày (con gái) thì làm lễ đầy cữ. Lễ cúng có bảy hay chín miếng thịt vú lợn.

– Ăn xong, bị nấc cụt thì uống bảy hay chín ngụm nước v.v...

Nhưng câu hỏi tại sao lại nói ba hồn, bảy hay chín vía thì vẫn chưa có câu trả lời thuyết phục.

Mấy con số ba, bảy, chín đã đẩy nhiều học giả Pháp vào ngõ bí, lùng bùng không lối thoát.

Linh mục Léopold Cadière sau khi phân tích tỉ mỉ, giải thích dài dòng các khái niệm về hồn, phách, vóc, vía, vệ, hơi, khí, đã đi đến kết luận rằng Ba hồn bảy phách là dịch câu tam hồn thất phách,người ta có ba hồn, bảy phách (hay bảy vía).

Ba hồn là sinh hồn, giác hồn, và linh hồn (hay thần hồn). Nói như vậy nhưng Cadière lại thừa nhận rằng đây chỉ là giải thích của triết học, còn dân gian thì hoàn toàn không biết gì và rất hiếm người am hiểu giải thích được nguồn gốc của ba hồn.

Còn bảy phách? Cadière dẫn lời Eitel giải thích rằng Ba là số linh hồn có dương tính, bảy là số linh hồn có âm tính. Tam hồn thất phách là Ba hồn có lí trí (raisonnable) và bảy hồn của các sinh vật (animal). Theo linh mục Rey thì Tam hồn thất phách là Ba nguyên lí thượng tầng và bảy nguyên lí hạ tầng của hồn.

Cadière không trả lời được câu hỏi tại sao có người có bảy vía, có người có chín vía. Ông chỉ dựa vào một điều chắc chắn là tín ngưỡng dân gian Việt Nam nói rằng đàn ông có bảy vía, đàn bà có chín vía. Cadière đưa ra nhiều bằng chứng như:

– Tại Quảng Bình, khi gia đình có người chết, người ta nhờ một người ngoài gia đình leo lên mái nhà hô tênhú hồn người chết. Hú ba hồn bảy vía (nếu là đàn ông), chín vía (nếu là đàn bà) (gọi tên người chết), ở mô về nhập xác.

– Hú hồn người chết đuối thì người nhà đi dọc bờ sông chỗ xảy ra tai nạn, hú như trên.

– Lễ tang, lúc quan tài hạ huyệt, nhà sư đi vòng quanh huyệt bảy lần (đàn ông) hay chín lần (đàn bà).

– Baron cho biết: Người Bắc kì có tục chôn người chết thường kèm theo bảy bộ quần áo đẹp nhất cho đàn ông, chín bộ cho đàn bà.

Linh mục Souvignet cho rằng phách, vía cũng có nghĩa tương tự như khiếu. Khiếu nghĩa là lỗ hổng. Người ta có chín lỗ hổng (cửu khiếu).

Các tự điển của ta, của Pháp chỉ nói cửu khiếu gồm mắt, tai, miệng v.v.. Không rõ ràng. Không biết cửu gồm những gì.

Souvignet lại nói thất khiếu là bảy lỗ hổng trên đầu: 2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi, 1 miệng. Đàn bà có thêm 2 lỗ phía dưới... để đại tiện và sinh đẻ. Gồm tất cả lại thành 9 lỗ (cửu khiếu). Cadière bác bỏ lối giải thích của Souvignet vì... đàn ông cũng có 2 lỗ phía dưới, sao không kể?

Rốt cuộc, Cadière cũng như Rey và De Groot đều tuyên bố không giải thích thoả đáng được "bảy vía, chín vía" của người An Nam. (19)

Cadière chấp nhận rằng có ba hồn bảy vía hay chín vía vì... dân gian nói như vậy!

Nếu vậy thì tại sao lại không bàn về mấy con số của ngôn ngữ dân gian?

Lục tìm trong sách xưa, thấy một dấu vết...

Tục truyền rằng Hưng Đạo vương đại thắng quân Nguyên, bắt sống được tên phản bội tổ quốc Phạm Nhan.

Hưng Đạo vương cho đem Phạm Nhan về làng An Bài hành hình rồi vứt xác xuống sông.

Lúc bấy giờ trên khúc sông ấy có hai người đánh cá kéo lưới được cái đầu lâu, bèn khấn rằng:

– Nếu có linh thiêng thì phù hộ cho chúng tôi được nhiều cá, chúng tôi sẽ đem mai táng ngay.

Quả nhiên hai người ấy bắt được nhiều cá gấp bội mọi ngày, liền đem cái đầu lâu chôn ở trên bờ sông.

Về sau, những khi hai người đánh cá đi chợ qua chỗ ấy, thường hay rủ thần (Phạm Nhan) đi chơi, lâu ngày thành quen. Hai người đánh cá cùng với thần thành ba, cho nên tục gọi là "ba hồn". (20)

Sống chết lẫn lộn. Ba hồn là hồn của hai người sống và một người chết. Dù sống hay chết, mỗi người chỉ có một hồn. Trương Ba chết rồi, hồn phách được Đế Thích cho nhập vào xác người hàng thịt.

Dân gian nói ba hồn bảy (hay chín) vía vì thích bắt chước văn nhân, sĩ tử dùng số chăng?

Truyện Kiều có câu:

Quả mai ba bảy đương vừa
Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì (Kiều)

Trên tam đảo, dưới cửu tuyền
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng (Kiều)

Tam đảo là ba hòn đảo chỗ tiên ở. Cửu tuyền là chín con suối dưới âm phủ.

Bảy phường chín xóm là đây
Buồm giăng ba cánh sóng rày lao xao (Trương Vĩnh Ký, Nhật trình đường biển nước Nam)

Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Thất bát khe cũng lội, tam thập lục đèo cũng qua

Phiêu phiêu tử phủ đan đài
Ba nghìn chín vạn cõi ngoài tràng sinh (Chầu văn)

Văn chương chữ nghĩa chải chuốt, vần điệu êm tai, nhưng xa vời thực tế.

Dân gian có rất nhiều thành ngữ có số:

Ba vạn chín nghìn. Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh. Ba vuông bảy tròn. Ba chân bốn cẳng. Năm cha ba mẹ. Năm thì mười hoạ. Năm lần bảy lượt. Năm người mười làng. Chín phương trời, mười phương đất. Ba đầu sáu tay. Ba đầu chín đuôi (tam đầu cửu vĩ)...

Dân gian đang chờ các nhà khoa học đi tìm cho ra con "ba đầu sáu tay", chờ các triết gia giải thích tông tích thằng "năm cha ba mẹ".

Đối với dân gian thì hiểu được ý nghĩa thành ngữ là đủ rồi. Mấy con số chỉ là "thêm mắm thêm muối", không bắt buộc phải đúng.

***

Sau khi nghe các học giả, triết gia phân tích ý nghĩa hồn, vía (phách), loay hoay tìm cách giải thích mấy con số ba (hồn), bảy (vía) hay chín (vía), có thể tạm rút ra kết luận:

Ai cũng có một hồn, một vía. Lúc sống gọi là vía (ngày vía là ngày sinh), khi chết gọi là hồn. "Ba hồn, bảy vía" hay "ba hồn, chín vía" là cách nói ví von của dân gian. Mấy con số không phải là số đếm chính xác của toán học.

.

Nguyễn Dư
(Lyon, 8/2020)

__________

(1)- Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký, Văn Học, 2001, tr. 135.

(2)- Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, Bốn Phương, 1961,tr. 194.

(3)- Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, Khai Trí, 1969, tr. 502.

(4)- Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng hợp Đồng Tháp, 1990, tr. 29.

(5)- Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất lề quê thói, Đại Nam, tr. 405.

(6)- Gustave Dumoutier, Le rituel funéraire des Annamites, Schneider, 1902, tr. 14.

(7)- Sơn Nam, Thuần phong mỹ tục Việt Nam, Tổng Hợp Đồng Tháp, 1994, tr. 61.

(8)- Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, sđd, tr. 461.

(9)- Nhất Thanh, sđd, tr. 30.

(10)- Mai Viên Đoàn Triển, An Nam phong tục sách, Hà Nội, 2008, tr. 102.

(11)- Gustave Dumoutier, Essai sur les Tonkinois, Schneider, 1908, tr. 29.

(12)- Đào Duy Anh, sđd, tr. 192.

(13)- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, quyển thượng, Xuân Thu, tr. 221.

(14)- Pierre Huard, Maurice Durand, Connaissance du Việt Nam, EFEO, 1954,tr. 144.

(15)- Toan Ánh, Tín ngưỡng Việt Nam, sđd, tr. 221-223.

(16)- Cristoforo Borri, Relation de la nouvelle mission au royaume de la Cochinchine, Bonifacy dịch sang tiếng Pháp, BAVH số tháng 7-12 năm 1931, tr. 356-357.

(17)- Maurice Durand, Điện thần và nghi thức hầu đồng Việt Nam, Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, 2019, tr. 34.

(18)- Lê Mai Dung, Bí ẩn của các nhà ngoại cảm Việt Nam, Văn Hoá Thông Tin, 2007.

(19)- Léopold Cadière, Croyances et pratiques religieuses des Viêtnamiens, tập 3, EFEO, tr. 180-195.

(20)- Vũ Phương Đề, sđd, tr. 279.

 

Direct link: http://www.caidinh.com/trangluu1/vanhoaxahoi/vanhoa/huhonhuvia.htm


Cái Đình - 2020