Phạm Đình Lân


Thảo mộc trị cổ trướng trên thế giới

.

Cổ trướng là một nan chứng rất khó trị. Đó là một trong tứ chứng nan y trong Đông Y: phong, lao, cổ, lại. Thực tế Tây Y cũng không dám xem thường chứng bịnh này.

Cổ là cái trống. Về hình thức người mang chứng bịnh này có bụng phình to như cái trống. Da và mắt vàng như nghệ. Người Việt Nam còn gọi là chứng xơ gan hay sượng gan. Người Anh gọi là Cirrhosis; Pháp: Cirrhose du foie (kirrhos: vàng).

Bộ phận chính yếu của cổ trướng là gan. Bịnh bắt nguồn từ một trong các nguyên nhân sau đây:

  1. uống nhiều rượu
  2. gan bị vi trùng sốt rét tấn công
  3. viêm gan; bịnh gan và mật.
  4. gan có nhiều mỡ (steatohepatitis)

Tỷ lệ tử vong của chứng bịnh này rất cao mặc dù ngày nay y học trị liệu tiến bộ rất nhiều so với những thế kỷ trước. Trong quá khứ nhân loại dùng thảo mộc nào để trị cổ trướng? Dược thảo được dùng có những đặc tính trị liệu như: nhuận tiểu, nhuận trường, tẩy độc trong gan và kháng trùng mạnh.

****

LÁ MUỒNG TRÂU

Cassia alata
Cassia herpetica
Gia đình: Fabaceae hay Caesalpiniaceae

Cây muồng trâu (davesgarden.com)

Theo từ nguyên ta có: 1. Cassia: vỏ quế 2. herpetica: nấm, bịnh ngoài da như hắc lào, dời (Zona). Tên khoa học Cassia herpetica của cây muồng trâu phản ánh tính năng trị liệu hắc lào của loài thảo mộc này.

Cây muồng trâu là một loại thảo mộc vùng khí hậu nhiệt đới, bán nhiệt đới và khí hậu đại dương gốc ở Trung và Nam Mỹ.

Tên khoa học là Cassia alata, thuộc gia đình Fabaceae. Tên gọi thông thường là:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Muồng trâu; nam đại hoàng (gọi theo Đông Y)

Anh

Candle bush (căn cứ vào hoa),

ringworm cassia, ringworm senna (căn cứ vào trị liệu hắc lào)

Pháp

Fleur dartre

Mã Lai

Gelenggang

Khmer

Dang het

Lào

Khi let ban

Phi Luật Tân

akapulko

Trung Hoa

Xuan gui pi

Cây muồng trâu cao lối 2 - 3m. Thân cây mềm và giòn. Lá to mọc đối như lá me hay lá mắc cỡ. Cuống lá dài. Ban đêm lá xếp lại như lá mắc cỡ (trinh nữ). Lá màu xanh tươi. Hoa ra thành chùm thẳng đứng lối 50 - 60cm, màu vàng tươi rất đẹp. Trái dài và to.

Lá và nhựa cây muồng trâu được dùng để kháng nấm, trị hắc lào vì có fungicidechrysophanic acid C15 H10 O4 kháng khuẩn. Người ta dùng lá muồng trâu làm xà bông tắm, xà bông gội đầu, dầu thơm vì nó trị các bịnh về da. Muồng trâu có saponins xua đuổi côn trùng.

Toàn thân cây muồng trâu có chrysophanol. Trái có chrysophanic acid. Hột có chrysophanol. Lá có cassic acid, aloe-emodin enthrone, rhein enthrone, kampferol. Rễ có anthraquinone gây tẩy xổ rất mạnh.

Kinh nghiệm về việc dùng muồng trâu trị bịnh của các dân tộc trên thế giới rất phong phú.

Ở Phi Luật Tân muồng trâu (akapulro) được dùng làm thuốc xổ, trị nấm trên da.

Ở Phi Châu người ta dùng muồng trâu để trị bịnh về da, sốt, đau bụng, suyễn, rắn cắn, dương mai v.v…

Ở Surinam tức Guiana thuộc Hòa Lan trước kia, lá muồng trâu dùng để trị hắc lào; hột để trục lãi; rễ để trị rối loạn tử cung.

Thổ dân sống dọc theo thung lũng sông Amazon dùng hoa muồng trâu sắc nước uống để tẩy xổ.

Ở Peru nước sắc của hoa muồng trâu dùng để trị tiểu đường, đường tiểu nhiễm trùng, nhuận tiểu. Lá giã nát dùng để trị hắc lào, bịnh ngoài da. Rễ, lá và thân cây muồng trâu sắc nước uống để trị viêm gan (hepatitis) và trục lãi.

Ở Việt Nam muồng trâu được dùng để tẩy xổ, trị hắc lào, viêm gan, cổ trướng (cirrhosis).

Muồng trâu tẩy xổ rất mạnh vì vậy cần phải để ý đến liều lượng khi dùng. Vì lẽ ấy người ta chỉ dùng muồng trâu làm thuốc tẩy xổ thú y mà thôi!

Muồng lông Cassia hirsuta hay Senna hirsutaflavonol glycoside, rutin C27 H30 O16 (hoa). Hột có bianthraquinone C30 H18 O4, triterpenoid. Hoạt chất lấy từ cây muồng lông có tính bảo vệ gan (thí nghiệm vào chuột).

Muồng trinh nữ, lá kép, hoa dài mang tên khoa học Cassia mimosoides.

Muồng hôi Cassia tora; muồng lùn Cassia pumila; muồng núi hay muồng Xiêm Cassia siamea cũng được tìm thấy ở Việt Nam.

Muồng trâu Cassia alata còn được gọi là nam đại hoàng. Đại hoàng (da huang) mang tên khoa học Rheum officinale, gia đình Polygonaceae.

ĐẠI HOÀNG

Rheum officinale
Gia đình: Polygonaceae

Cây đại hoàng (www.pfaf.org & www.vasteplant.be)

Đại hoàng là loại cây cao từ 1 - 2m sống lâu dưới đất và có củ tựa như củ cải. Đó là củ đại hoàng (Rhubarb) dùng để làm thuốc. Đại hoàng gốc ở Trung Hoa, Tây Tạng, Thổ Nhĩ Kỳ. Hoa trổ vào tháng 6 - 7. Hoa màu đỏ bầm, hồng-trắng. Lá hình trái tim hay tam giác. Hột già vào tháng 7 - 8.

Tên khoa học của đại hoàng là Rheum officinale thuộc gia đình Polygonaceae. Tên gọi thông thường là:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Đại hoàng (gọi theo người Trung Hoa)

Trung Hoa

Da huang

Anh

Chinese rhubarb; Turkey rhubarb

Pháp

Rhubarbe chinoise

Nhật

Daio

Từ nhiều thế kỷ trước người Trung Hoa đã biết dùng đại hoàng làm thuốc. Người Âu Châu biết dùng đại hoàng làm thuốc vào thế kỷ XIII. Cho đến thế kỷ XVIII người Anh vẫn còn dùng đại hoàng làm thuốc nhuận trường.

Lá và cọng của cây đại hoàng có độc chất nhưng nếu luộc chín là ăn được và độc chất mất đi. Lá có rutin C27 H30 O16.

Thành phần hóa học của đại hoàng gồm có: chrysophan, phaeoretin, erythrorhein, aporetin, chrysophanic acid C15 H10 O4, rheotannic acid C26 H26 O14, gallic acid C7 H6 O5, emodin C15 H10 O5, rhein C15 H8 O6, calcium oxalate (lá và thân cây – nguy hiểm cho thận), đường, tinh bột và muối.

Củ đại hoàng màu vàng nhạt nhuận tiểu, nhuận trường, dùng để trị thổ tả, tiêu chảy, kiết lỵ, trị viêm gan B, bịnh về bàng quang, trĩ (hemorrhoids), kinh nguyệt. Phụ nữ mang thai không được dùng.

Đại hoàng kháng trùng, kháng viêm, kháng khuẩn, kháng ung thư nhờ có aloe-emodin, chrysophanol, emodin, gallic acid, rhein. Các y sĩ Trung Hoa có nhiều kinh nghiệm về việc dùng đại hoàng trong việc chữa trị bịnh.

SÀI HỒ

Bupleurum chinense
Bupleurum kaoi
Gia đình: Apiaceae

Sài hồ (Hình: www.herbalfire.com &_ internet)

Sài hồ có nghĩa rất tầm thường đầy tính kỳ thị dân tộc: củi nhúm lửa của rợ Hồ.

Sài hồ là loại cây có củ mang tên khoa học Bupleurum chinense thuộc gia đình Apiaceae. Người Việt Nam gọi đó là bắc sài hồ (Bei chai hu) để phân biệt với nam sài hồ cúc là cúc Pluchea pieropoda (lá vò nát có mùi long não, vì vậy người Anh gọi là camphorweed). Người Trung Hoa gọi nam sài hồ là Kuo bao ju (quốc bảo cúc?) và người Việt Nam gọi là cúc tần.

Tên gọi thông thường của sài hồ là:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Sài hồ

Trung Hoa

Chai hu; Bei chai hu (bắc sài hồ)

Anh

Hare’s ear root; thorax root

Nhật

Saiko

Triều Tiên

Siho

Trong dược khoa củ sài hồ được gọi là Radix bupleuri.

Trong Đông Y sài hồ có một vị trí quan trọng đặc biệt. Về thành phần hóa học sài hồ có: fatty acids, oleic acid C18 H24 O2, palmitic acid C16 H32 O2, quercetin C15 H10 O7. Sài hồ có nhiều saikosaponins C42 H68 O13 kháng ung thư. Saikosides sản xuất ra corticosteroids kháng viêm rất mạnh và hữu hiệu.

Sài hồ bảo vệ gan, cường thận, lợi cho dạ dày, lá lách. Nó kháng viêm, kháng nấm, kháng khuẩn, chủ trị viêm gan và cổ trướng. Kết hợp với vài loài thảo mộc khác sài hồ dùng để chữa nhiều chứng bịnh khác như: suyễn, táo bón, sốt, ớn lạnh, viêm phế quản, ho gà, đau cuống họng, ho lao, phổi có nước, dạ dày bào bọt ợ chua, viêm lá lách, viêm thận, viêm gan, sạn thận, đau tai, kiết ly, cao máu, bất lực sinh lý, mạch máu xơ cứng, tiểu đường, trĩ, béo phì.

Sài hồ Taiwan Bupleurum kaoi cũng gia đình Apiaceae có tác dụng mạnh hơn sài hồ Trung Hoa Bupleurum chinense. Người Trung Hoa gọi đó là Taiwan Chai Hu. Sài hồ Taiwan (Đài Loan) có tất cả đặc tính và dược tính của sài hồ Trung Hoa nhưng mạnh hơn trong việc kháng viêm, kháng khuẩn, kháng trùng, hạ sốt, trị viêm gan.

Vi khuẩn Coxsackie loại 1 (CVB1) gây ra nhiều bịnh và gây tử vong cho trẻ nít. Nó gây viêm và thoái hóa mô các sớ thịt (myositis), gây bại liệt, đau nhức các sớ thịt vùng sườn, thực quản (pleurodynia), đau màng óc và có thể dẫn tới tử vong. Cho đến nay chưa có thuốc nào kháng khuẩn Coxsackie loại 1 (CVB1) có kết quả cả. Các nhà nghiên cứu Trung Hoa nghĩ đến sài hồ Taiwan Bupleurum kaoi vì tính kháng khuẩn mạnh của loài dược thảo này.

CAM THẢO

Glycyrrhiza glabra
Gia đình: Fabaceae

Cam thảo (Hình: powo.science.kew.org)

Cây cam thảo cao từ 1 – 1,50 m. Lá nhỏ, mọc đối nhau trông đẹp mắt. Hoa màu tím-đỏ trổ thành chuỗi. Trái có nhiều hột.

Từ thời cổ sử người Assyrians, Syrians, Ai Cập và Trung Hoa đã biết dùng cam thảo.

Tên khoa học của cam thảo là Glycyrrhiza glabra thuộc gia đình Fabaceae. Theo tiếng Hy Lạp glukurrhiza có nghĩa là cây có rễ ngọt. Tên gọi thông thường:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

cam thảo

Trung Hoa

Gan cao (cam thảo)

Anh

sweet wood; liquorice (licorice)

Pháp

Licorice, reglisse

Ấn Độ

Mulethi

Sanskrit

Gujarati

Cam thảo được biết ở Đức vào thế kỷ XI. Vua Edward I của Anh đánh thuế cam thảo nhập cảng để lấy tiền sửa cầu London vào năm 1305.

Cây cam thảo thái mỏng dùng để làm thuốc, tạo hương vị ngọt trong bánh, kẹo, thuốc lá, bia, nước ngọt v.v… Ở Việt Nam người Hoa ngâm ổi, trái cốc trong nước cam thảo để có vị ngọt tự nhiên thay cho đường. Cam thảo cũng được dùng như trà uống cho thông cổ. Cam thảo nhuận trường, kháng khuẩn. Nó được dùng để chữa loét miệng, suyễn, tê thấp, thông phế. Cam thảo có Glycyrrhizic acid C42 H62 O16 kháng khuẩn rất mạnh nhưng dùng nhiều có hại cho gan, tim và thận. Cam thảo được dùng để trị viêm gan. Người bịnh thận, phụ nữ mang thai, người bị chứng mất ngủ, cao huyết áp không được dùng cam thảo. Glycyrrhizic acid làm gia tăng áp huyết.

Cam thảo có glycyrrhizin C42 H62 O16 ngọt hơn đường gấp 50 lần, liquiritoside, isoliquiritoside, asparagine, đường, nhựa và chất nhờn.

Người Trung Hoa dùng cam thảo Glycyrrhiza glabra, Glycyrrhiza inflata, Glycyrrhiza uralensis để làm thuốc. Cam thảo Glycyrrhiza uralensis (núi Urals) được tìm thấy nhiều ở Trung Á, Hoa Bắc và Nhật Bản. Nó được dùng làm thuốc trị bịnh Addison (1), ho, suyễn. Kết hợp cam thảo Urals với sâm Panax ginseng làm tăng thêm sinh lực nhưng làm giảm hiệu lực của hoàng liên Coptis chinensis và làm tăng độc chất salicylates, ephedrine, adrenaline, cortisone và tình trạng thiếu đường trong máu (hypoglycemia).

Ở Bắc Mỹ có cam thảo Glycyrrhiza lepidota. Ngày xưa người Da Đỏ ở Bắc Mỹ dùng cam thảo này sau khi sinh con như thuốc điều kinh. Người Âu Châu đến Bắc Mỹ cũng dùng như vậy.

SẮN DÂY

Pueraria lobata
Gia đình: Fabaceae

Sắn dây (Hình: Forest and Kim Starr, USGS)

Trước tiên xin đừng nhầm chữ SẮN trong bài với:

– củ sắn (miền Nam) (củ đậu ở miền Bắc) mang tên khoa học Pachyrrhizus erosus. Củ màu trắng tuyết, vị ngọt lợ thường thấy trồng gần Cầu Cát cách trường Trung Học Trịnh Hoài Đức, Bình Dương, lối 300m.

– khoai mì (miền Nam) (sắn ở miền Bắc) mang tên khoa học Manihot dulcis.

Sắn dây trong bài này mang tên khoa học Pueraria lobata, gia đình Fabaceae (họ đậu).

Dây sắn to, có lông, dài từ 20 - 30m. Lá hình trái tim. Hoa trắng hay tím-đỏ-vàng như các loài hoa đậu. Trái phẳng, có lông, có từ 3 đến 4 hột.

Tên gọi thông thường:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

Sắn dây, Cát căn (Hán Việt)

Trung Hoa

Ge gen (Cát căn)

Nhật

Kudzu

Anh

Kudzu, Mile -a-minute vine (vì dây rất dài),
Japanese arrowroot (hoàng tinh Nhật Bản)

Sắn dây có rất nhiều ở vùng nhiệt đới, bán nhiệt đới Á Đông, các hải đảo Thái Bình Dương (khí hậu đại dương), bắc Úc Đại Lợi. Vào thế kỷ XIX sắn dây được du nhập vào Hoa Kỳ. Florida có nhiều sắn dây nhưng người Mỹ xem đó là loại dây leo nhiệt đới lấn đất! Sắn dây có công dụng lớn ở Việt Nam, Trung Hoa, Nhật về dinh dưỡng lẫn y dược.

Công dụng:

– trồng sắn dây cho đất có thêm nitrogen, để ngụy trang.

– lá là thức ăn bổ dưỡng cho trâu, bò, dê, trừu. Bột sắn dẻo và có nhiều nhựa như bột hoàng tinh. Người Nhật dùng bột sắn làm bánh ăn tráng miệng như Kuzumochi, Mizu manju, Kuzuyu. Người Việt Nam ở miền Bắc thích uống bột sắn vào mùa hè bức nhiệt. Ở Hoa Kỳ bột sắn dây được dùng trong kỹ nghệ xà bông, dầu thơm, làm thạch. Thân dây dùng để đan giỏ xách hay rổ. Sợi làm bột giấy, làm giấy dán tường hay vải thô.

Từ đời nhà Hán sắn dây được dùng để trị say rượu, nghiện rượu (củ, hoa, lá). Sắn dây có isoflavone kể cả daidzein C15 H10 O4 kháng viêm, kháng trùng. Daidzin C21 H20 O9 có tính kháng ung thư, liên hệ đến chất genistein C15 H10 O5 kháng ung thư máu. Genistein có nhiều trong cây dầu chổi nhuộm Genista tinctoria. Sắn dây là nguồn isoflavone puerarin quan trọng. Củ sắn dây (Cát căn) dùng để trị: nhức đầu (giảm huyết áp), dị ứng, chuột rút sớ thịt đường ruột do ảnh hưởng kiết lỵ, tiêu chảy gây ra, ù tai, chóng mặt, trúng rượu độc, tiểu khát, cảm sốt, khát nước, lọc máu, tẩy độc, hạ cholesterol. Củ dùng để đắp nơi bị rắn cắn.

NẤM LINH CHI

Ganoderma lucidum
Gia đình: Polyporaceae

Nấm linh chi (Hình: en.wikipedia.org)

Nấm linh chi mang tên khoa học Ganoderma lucidum thuộc gia đình Polyporaceae. Có lối 50 loại nấm thuộc gia đình Polyporaceae (nấm xốp vì có nhiều lỗ nhỏ li ti). Nấm linh chi thường mọc trên các gốc cây mục ở miền ôn đới như cây xồi (oak tree), cây thích (maple) chẳng hạn.

Tai nấm to màu vàng cam, viền trắng. Mặt trên của nấm láng và sáng (lucidum: sáng; derma: da).

Tên gọi thông thường:

Quốc gia

Tên gọi

Việt Nam

nấm linh chi

Nhật Bản

Reishi; Mannetake nghĩa là nấm 10.000 tuổi.

Triều Tiên

Hangul

Trung Hoa

Lingzhi (Linh Chi)

Anh

Reishi mushroom

Từ năm 2500 trước Tây Lịch người Trung Hoa biết dùng nấm linh chi vào y học trị liệu. Nấm linh chi được xem như là biểu tượng của sự trường thọ. Theo Đông Y, các loại thảo mộc giúp kéo dài tuổi thọ gồm có:

Hiện nay các nhà khoa học trên thế giới cũng đặc biệt để ý đến việc dùng nấm linh chi làm thuốc chữa trị các chứng bịnh ngặt nghèo.

Đông y sĩ Trung Hoa ngày đưa chia nấm linh chi ra làm 06 loại căn cứ vào hình dáng và màu sắc tương ứng với các bộ phận trong cơ thể như sau:

Màu sắc

Bộ phận trong cơ thể

Đỏ

Tim

Tím

Các khớp xương

Xanh

Gan

Trắng

Phế (Phổi)

Đen

Thận, Não

Vàng

Tỳ

Thành phần hóa học trong nấm linh chi: ganoderic acid C30 H44 O7, nguồn beta-glucan chứa ergosterol, coumarin, mannitol, lactones, alkaloids, fatty acids, sinh tố, khoáng chất. Nấm linh chi có 75% nước (ít nước so với các loại nấm khác).

Đặc tính: kháng viêm, kháng nấm, kháng khuẩn, kháng trùng.

Chủ trị: tiểu đường, cao huyết áp, hạ cholesterol, hạ đường trong máu, trị u bướu, ung thư, bảo vệ gan chống nhiễm độc hay bị thương tổn. Ganoderic acid C30 H44 O7 trị gan nhiễm khuẩn hay nhiễm độc và bị u bướu (dạng ung thư).

Nấm linh chi còn được dùng để trị bịnh tim, chứng mất ngủ, mất trí nhớ, suy nhược cơ thể.

BỒ CÔNG ANH

Taraxacum official
Gia đình: Asteraceae hay Compositae

Bồ công anh (Hình: http://www.kuleuven-kulak.be v à http://eigenwijzetuin.be)

Bồ công anh là một loại cỏ mọc hoang ngoài đồng có rễ to tựa như củ ăn sâu cả tấc dưới đất; lá có răng cưa như gai; hoa nhỏ màu vàng như hoa cúc.

Bồ công anh là thảo mộc miền khí hậu ôn đới và Địa Trung Hải.

Tên thường dùng là:

Quốc gia

Tên gọi

Ả Rập

Tarakhshaqun (được âm ra La Tinh thành Taraxacum trong tên khoa học)

Pháp

Dent de lion (răng sư tử – vì lá có răng cưa nhọn)

Anh

Dandelion (âm từ tiếng Pháp Dent de lion)

Trung Hoa

Pu Gong Ying (Bồ Công Anh)

Việt Nam

Bồ Công Anh

Nhật

Tan Popo

Ấn Độ

Sinhaparnee

Tarakhshaqun có nghĩa là rau diếp xoăn đắng. Đó là loại rau được người Pháp dùng và là một loại thuốc được ghi trong y thư Trung Hoa vào thế kỷ VII và y thư Âu Châu vào thế kỷ XV. Cây bồ công anh cao lối 30cm, lá chẻ, răng cưa thưa. Ở đầu mỗi răng cưa có gai khá nhọn nếu đụng vào tay. Hoa nhỏ màu vàng tươi với nhiều cánh nhỏ như hoa cúc. Khi gần tàn hoa có hình cầu màu xám tro. Gió thổi mang hột bồ công anh bay đi khắp nơi để có những cây bồ công anh nhỏ. Ở Hoa Kỳ dandelions được xem là một loại cỏ lấn đất, khó diệt vì có rễ to ăn sâu dưới đất mạnh hơn cả cỏ gấu (hương phú) ở Việt Nam. Cỏ gấu có củ. Bồ công anh có rễ to, ăn sâu dưới đất cả tấc.

Công dụng:

Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

(Bài viết tổng hợp dựa vào Thế Giới Thảo Mộc Từ Điển do tác giả Phạm Đình Lân biên soạn)

_____________

Chú thích:

(1) Bịnh Addison do thiếu cortisone mà ra. Người bị suy yếu, da hung đen, áp huyết xuống thấp.


Cái Đình - 2018