Phạm Đình Lân
Năm Sửu nói chuyện trâu
Thân thế ngưu tộc
Năm 2009 là năm Kỷ Sửu tức là năm con trâu. Phần lớn chúng ta lầm tưởng rằng ngưu hay ngâu là trâu. Thực sự ngưu là bò. Bò hay trâu đều thuộc gia đình Bovidae .
Có người cho rằng bò là huỳnh ngưu và trâu là hắc ngưu . Cách phân biệt này không được ổn lắm vì cũng có nhiều con bò có lông đen, bò vá đen-trắng hay trắng-nâu và bò có lông trắng toát. Người Trung Hoa gọi trâu là thủy ngưu . Người Anh cũng gọi như thế với danh từ water buffalo hay water ox . Người Anh cũng gọi trâu là Indian buffalo vì Ấn Độ là một trong những vùng xuất phát của loài động vật ăn cỏ và nhai lại này.
Trâu và bò đều là động vật có vú, có xương sống, có máu đỏ, có sừng, có móng đặc và có bao tử đặc biệt của loài ăn cỏ và nhai lại thuộc gia đình Bovidae . Tên khoa học của trâu là Bubalus bubalus . Trâu gốc ở Ấn Độ, Nepal, Thái Lan và được nuôi ở Việt Nam mang tên khoa học Bubalus arni . Ngoài những con trâu được thuần hóa, trong rừng Phi Châu, quần đảo Phi Luật Tân, Indonesia còn có nhiều con trâu sống trong trạng thái hoang dã.
Trâu được thuần hóa ở Iraq và Ấn Độ từ 4.000 năm trước. Ở Trung Hoa thủy ngưu tộc được thuần hóa cách đây 3.000 năm. Hiện nay trên thế giới có hàng trăm triệu con trâu được thuần hóa. Ở Việt Nam người ta phân biệt trâu qua màu sắc. Do đó ta có trâu đen và trâu cò hay trâu trắng.
Các nhà động vật học phân biệt:
a.- Trâu đầm lầy: là trâu kéo cày, kéo xe ở miền Nam Trung Hoa và các quốc gia Đông Nam Á. Trâu đầm lầy không cho sữa.
b.- Trâu sông: nuôi ở Ấn Độ, Pakistan, Ai Cập và các quốc gia Đông Nam Á dùng để lấy thịt, sửa, để kéo xe và kéo cày. Sữa trâu rất bổ.
Trâu và bò đều cùng gia đình nhưng giữa ngưu tộc và thủy ngưu tộc có vài sự khác biệt:
– Trâu to lớn và mạnh khỏe hơn bò.
– Trâu cày ruộng lầy dễ dàng. Trái lại bò kéo cày dưới ruộng lầy rất khó khăn.
– Trâu thích ngâm mình dưới bùn sình có nước. Bò không thích ngâm mình dưới nước.
– Sừng bò ngắn. Sừng trâu dài và cong.
Trâu lên ba tuổi thì bắt cặp. Thời kỳ mang thai kéo dài từ 300 đến 340 ngày. Trâu thường đẻ một con. Trâu con mới sinh cân nặng từ 30 – 35 ký lô.Tuổi thọ trung bình của trâu là 25.
Trâu Á Châu được biết dưới tên khoa học Syncerus caffer cân nặng đến 1.000 ký lô. Trâu Phi Châu cân nặng trung bình lối 700 ký lô. Ở Phi Châu trâu sống trong rừng, thảo dã, đầm lầy và miền núi. Thân thuộc gần của trâu là:
– Trâu Anoa trên đảo Java ở Indonesia nhỏ con, sừng mọc ngược về phía sau. Loại trâu này mang tên khoa học Babulus depressicornis có vóc dáng giữa trâu và dê. Giống này rất hiếm trên thế giới.
– Trâu Gaur sống trong rừng ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan , Cambodia và đồng bằng sông Cửu Long. Hình dáng của loài động vật này giống trâu nhưng tên khoa học Bos gaurus của nó cho thấy các nhà động vật học liệt nó vào bò.
– Trâu Yak Bos grunniens ở Tây Tạng, vùng Kashmir , tỉnh Thanh Hải ( Qinghai ) cũng được liệt vào bò. Người ta nuôi trâu Yak để lấy lông, thịt, sữa, da và để chuyên chở hàng hóa trên miền núi và cao nguyên.
– Bò rừng Âu Châu Bison bonasus.
– Bò rừng Bắc Mỹ Bison bison .
– Bò xạ (musk-ok) ở miền hàn đới như bắc Canada , Greenland mang tên khoa học Ocibos moscharus . Vì ở vùng lạnh nên các loại bò này có lông dày, Bò xạ toát mùi xạ khi động cỡn.
– Bò Bateng Bos javanicus tức bò Java được tìm thấy nhiều ở Nam Á và Đông Nam Á.
– Bò Zebu ở Ấn Độ được xem là con vật thiêng. Bò Zebu to lớn nên kéo xe hay kéo cày rất khỏe.
– Ở Phi Châu có bò Anhole. Bò cái của giống này có sừng dài hơn bò đực. Bò Gnu là giống bò thường thấy trên các dồng cỏ khô ở Phi Châu. Chúng là mồi của sư tử, beo và linh cẩu.
– Ở Âu Mỹ các giống bò thường thấy là bò Holstein-Friesian, Jerseys , Guernseys , bò Aberdeen Angus không có sừng v.v.
Trong trạng thái hoang dã ngưu tộc sống theo đàn. Nơi nào có đồng cỏ và đầm lầy, nơi đó có ngưu tộc tập trung để ăn cỏ và ngâm mình dưới nước. Xã hội ngưu tộc là xã hội mẫu hệ.
Ngưu tộc trong xã hội loài người
Trâu có vai trò quan trọng ở các quốc gia Châu Á gió mùa, nơi dân chúng sống bằng nghề trồng lúa. Cây lúa cần nhiều nước. Ruộng trồng lúa là ruộng lầy nên dùng trâu trong việc cày bừa có năng suất cao hơn dùng bò. Đó là máy cày, máy kéo của nông dân. Vì lẽ đó, trước khi có máy cày, việc giết trâu để ăn thịt gần như đồng nghĩa với phá hủy phương tiện sản xuất và giết hại loài động vật giúp cho nông dân giảm bớt sự lao lực.
Đối với nông dân Việt Nam con trâu là một sản nghiệp. Ba biến cố quan trọng đối với người Việt Nam ngày xưa là:
1.- Mua trâu.
2.- Cưới vợ.
3.- Xây nhà.
Người Việt vẫn thường nói:
Con trâu là đầu sự nghiệp
hay:
Trật con toán bán con trâu
như để nói lên giá trị to lớn của con trâu trong xã hội nông nghiệp vùng Châu Á gió mùa.
Tiền nhân chúng ta nhận xét rằng:
Muốn làm giàu thì nuôi trâu cái
Muốn phá sản thì nuôi bồ câu.
Hình ảnh con trâu rất sống động trong sinh hoạt nông nghiệp ở Việt Nam với cảnh:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa .
Nhà nông cổ võ tinh thần ngưu tộc bằng những lời nói thân thương ngọt ngào với:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đâu, trâu đấy ai mà quản công
Ngày nào cấy lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Nông dân mua trâu thường để ý đến màu sắc và tướng mạo của trâu. Họ không thích trâu cò (trâu trắng) vì:
Trâu trắng đến đâu thất mùa đến đó .
Người ta không mua trâu có lông mọc lộn xộn hay có sừng cong xuống đất. Trâu có lưỡi đen luôn luôn chết vì bệnh dịch. Trâu có lưỡi trắng gây lắm phiền não cho chủ. Trâu có vệt trắng trên cổ là trâu lười.
Những người thờ Quan Công, học bùa ngải không ăn thịt trâu, thịt chó, khế, chuối chát, rau thơm vì sợ bùa mất linh nghiệm và người ăn bị hành.
Trong truyện Tàu hay trong các sóc của người Thượng trên cao nguyên Trung Bộ người ta thường hạ trâu làm thịt để ăn trong những ngày trọng đại. Thịt trâu cũng ngon như thịt bò. Ngày nay người ta dùng sữa trâu và thịt trâu để làm lạp xưởng. Sừng trâu dùng làm tù và thổi gọi công cấy ở thôn quê. Da trâu dùng để bịt trống. Sạn trong mật ngưu tộc gọi là ngưu hoàng dùng để làm thuốc. Các tiệm thuốc dùng sừng trâu thay thế cho sừng tê giác mài cho trẻ em uống.
Người Âu Mỹ không dùng trâu trong việc canh tác. Họ không nuôi trâu và cũng không ăn thịt trâu mà chỉ ăn thịt bò. Người Âu Mỹ có món bò bíp-tết (beef steak), Chateaubriand và hamburger làm từ thịt bò. Người Việt Nam có món phở bò, bò kho ăn với bánh mì hay bún, bê thui tương gừng, bò nhúng dấm, bò bảy món, khô bò, gỏi khô bò, bò lúc lắc, bò tái chanh, bò xào lăn, thịt bò nướng lá lốt v.v... Người Trung Hoa có bò vò viên, lòng bò. Người Âu Mỹ làm phô-mai từ sữa bò. Người Pháp nổi tiếng với phô mai La Vache Qui Rit (Con Bò Cười) với hình đầu bò cười. Hòa Lan nổi tiếng với sữa bột Guigoz, Người Việt Nam ăn lòng bò với mắm nêm, khế, chuối chát, rau sống nhưng không ăn phổi bò. Tiền nhân chúng ta vẫn nói “ Dở như phổi bò ” như ngụ ý khuyên chúng ta đừng ăn phổi bò. Bò là động vật lao lực nên phổi dễ nhiễm trùng lao. Vả lại phổi bò cũng không có hương vị gì rõ rệt.
Người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo không ăn thịt bò vì bò Zebu được xem là vật thiêng. Việc thờ Ngưu Thần được tìm thấy ở Sumer, miền Nam Iraq bây giờ, qua thần Enlil và ở Ai Cập cổ vào năm 3200 trước Tây lịch với thần Apis ở Memphis. Theo huyền thoại Hy Lạp thần Zeus, tức thần Jupiter của người La Mã, được bò cái nuôi dưỡng. Ngày xưa dân đảo Crete , Hy Lạp, cho rằng ngưu thần tượng trưng cho mặt trời và sự sinh sôi nẩy nở.
Trong Cựu Ước kinh có đề cập đến giấc mộng của vua Ai Cập về bảy con bò mập và bảy con bò ốm. Joseph giải đoán bảy con bò mập là dấu hiệu của sự thịnh vượng, phú túc trong bảy năm, và bảy con bò ốm là điềm đói kém, thất mùa, kinh tế suy vi trong bảy năm.
Ở các nước Đông Nam Á người ta thường tổ chức chọi trâu vào những ngày lễ truyền thống. Trò chơi này giống như trò đấu bò ờ Tây Ban Nha và các quốc gia Nam Mỹ. Trong trò chọi trâu, trâu thua thường bị giết. Trong trò đấu bò người thắng cuộc giết chết con bò. Nhưng nếu thua, người đấu bò có thể bị bò húc chết hay gây trọng thương.
Trong ngôn ngữ Việt Nam , tiền nhân chúng ta mượn nhiều hình ảnh của ngưu tộc để diễn đạt một số ý tưởng của mình.
Để chọc phá các nho sinh ta có các câu:
Thấy anh hay chữ thử hỏi đôi câu
Ngày xưa vua Thuấn cày trâu hay bò?
Thân trâu ngựa là cụm từ để chỉ sự khổ cực cùng độ:
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
hay:
Trâu ngựa dẫu kêu chi cũng mặc
Thân còn chẳng kể, kể chi danh
Trâu trắng trâu đen chỉ những người luôn luôn hục hặc với nhau.
Người khỏe mạnh và lao động mạnh lực được gọi là người khỏe như trâu .
Trâu chảng là trâu rất dữ và có sừng dài.
Trâu cui là trâu mạnh. Người Việt Nam thường nói: “Mạnh như trâu cui”. Trâu cui có sừng quặp xuống đất.
Trâu rừng là trâu sống trong trạng thái hoang dã như trâu rừng ở Ấn Độ, Indonesia , Thái Lan, Phi Luật Tân hay trâu rừng Phi Châu.
Có chửa trâu là cụm từ chỉ những người phụ nữ mang thai quá chín tháng mười ngày (280 ngày) nhưng vẫn chưa sanh. Thông thường trâu cái mang thai từ 300 đến 340 ngày mới sinh con.
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết cho thấy sự liên lụy và thiệt hại của kẻ nhỏ khi hai kẻ mạnh và to lớn đánh nhau.
Ngưu đầu mã diện (đầu trâu mặt ngựa) ám chỉ loài ác quỉ dưới âm phủ và những người không nhân tính trên trái đất.
Ngu như trâu; lì như trâu; đàn khảy tai trâu nói lên sự ngu đần, lì lợm và không phân biệt tốt, xấu, hay, dở, đúng, sai của ngưu tộc nhưng được tìm thấy ít nhiều trong cộng đồng nhân loại.
Trâu béo kéo trâu gầy : Trâu khỏe mạnh vừa kéo cày vừa kéo luôn công việc của trâu gầy. Người giỏi và siêng năng phải cáng đáng luôn công việc của người kém khả năng và lười biếng.
Trâu cột ghét trâu ăn : Đó là sự đấu tranh, ganh ghét giữa người được hưởng và người không được hưởng.
Trâu cột thì ghét trâu ăn
Quan võ thì ghét quan văn dài quần
Trâu chậm uống nước đục nói lên sự thiệt thòi của những người chậm chạp thiếu óc bon chen.
Trâu chết bò cũng lột da : Khi người đồng hành của mình bị hại, đừng lấy đó làm vui vì trước sau gì cũng đến phiên mình bị hại như vậy.
Trâu chết mặc trâu, bò chết mặc bò, củ tỏi giắt lưng nói lên sự thủ lợi của người ích kỷ trước cái chết của người khác.
Trâu tìm cột chớ cột không tìm trâu : Người cần sự giúp đỡ của người khác phải đi tìm người giúp đỡ chớ đừng ngồi chờ người giúp đỡ đi tìm mình.
Trâu chết không khỏi rơm : Khi còn sống trâu ăn rơm. Khi chết người ta dùng rơm thui trâu. Sống nơi nào phải biết quí nơi đó. Làm nghề gì cũng phải yêu nghề đó. Đến ngày cuối cùng người lo mai táng không ai khác hơn người thân, bạn bè, đồng nghiệp, láng giềng và nơi chôn cất là nơi mình đã sống.
Trâu lửng lờ thấy ác bay qua thì né nói lên thái độ sợ sệt của người làm lớn đối với thuộc hạ vì sai phạm một điều gì, cho dù chỉ có một mình biết mà thôi.
Trâu thịt thì gầy, trâu cày thì béo : Người làm lụng đến khi kiệt sức thì bị quên lãng. Người ta chỉ chú trọng đến người đem lợi cho họ mà thôi.
Trâu đồng nào ăn cỏ đồng nấy : Quyền lợi của ai người ấy hưởng.
Trâu ngã nhiều gã cầm dao : Thấy lợi thì người ta bu lại như thấy trâu ngã thì cầm dao đến để chia thịt vậy.
Trâu già không nệ dao phay : Người già không sợ chết.
Ngưu bì là da trâu, da bò dùng để làm keo hay bịt trống.
Ngưu lạc là chất béo lấy từ trong sữa như bò chẳng hạn.
Ngưu đậu là vi trùng đậu mùa trong mủ của con trâu do người cấy ra để trồng trái ngừa bịnh đậu.
Ngưu nhủ là sữa bò, sữa trâu.
Ngưu hoàng là sạn trong mật bò hay trâu dùng để làm thuốc trong Đông Y. Bò hay trâu bị sạn mật thường đứng lại nhìn mặt trời khi bị chói nắng.
Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã : Trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa. Đó là đồng loại tập hợp. Người Pháp và Anh có:
Qui se ressemble s'assemble
Birds of a feather flock together .
Hai câu này có vẽ nhẹ nhàng hơn ngưu tầm ngưu, mã tầm mã.
Những thiếu nữ khôn ngoan và đẹp đẽ lại có chồng khờ dại bị người đời biếm nhẽ bằng câu:
Đứa gái khôn lấy thằng chồng dại
Như cái hoa lài cặm bãi cứt trâu.
Cổ áo hình trái tim được ví bằng bộ phận sinh dục của trâu cái.
Trâu Lỗ là quê hương của Mạnh Tử và Khổng Tử. Quê của Mạnh Tử là xứ Trâu, quê hương của Khổng Tử là nước Lỗ.
Vào thế kỷ thứ 9 đời nhà Đường ở Bắc Ninh có một tu viện Phật Giáo gọi là Kim Ngưu. Tương truyền rằng trong lúc xây tu viện có một con trâu vàng (Kim Ngưu) xuất hiện từ giếng trèo lên.
Trong tiểu bang New York có thành phố Buffalo . Trong tiểu bang Illinois có thành phố Buffalo Grove . Buffalo là loại ngưu tộc có lông dài, sừng ngắn được biết dưới tên khoa học Bison bison .
Trong khoa tinh tú học Đông Phương có sao Ngưu (Ngâu). Trong truyện kể có chuyện tình trắc trở giữa Ngưu Lang và Chức Nữ. Những trận mưa dầm vào tháng 7 âm lịch (tháng Thân) hàng năm được gọi là những giọt mưa ngâu .
Trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp ba dưới thời Pháp thuộc có bài nói về con trâu, con cọp và trí khôn của loài người. Theo bài tập đọc này con cọp ngạc nhiên khi thấy một nông dân ốm yếu cầm roi đánh đập con trâu liên hồi trong lúc cày ruộng. Con cọp muốn biết tại sao con trâu to lớn và nặng gấp mười lần anh nông dân lại chấp nhận cho anh ta đánh dập mà không có một phản ứng chống cự nào cả. Con trâu buồn rầu đáp:
“Vì nó có trí khôn.”
“Trí khôn là cái gì mà ghê gớm thế?”, con cọp hỏi tiếp.
“Mầy hỏi nó thì biết”, con trâu đáp.
Con cọp quay sang người nông dân và hỏi:
“Trí khôn mầy đâu? Cho tao xem”.
“Trí khôn tao để ở nhà”, người nông dân đáp.
“Về nhà lấy trí khôn của mầy cho tao xem”, con cọp nói.
“Không được, nếu tao đi mày ăn thịt con trâu của tao. Nếu mầy để tao cột mầy lại thì tao an lòng về nhà lấy trí khôn của tao cho mầy xem”, người nông dân nói.
Con cọp đồng ý cho người nông dân cột vào gốc cây. Cột con cọp xong người nông dân lấy cái bắp cày đập mạnh vào đầu con cọp và nói: “Trí khôn tao đây nầy”.
Trong cuốn Quốc Văn Giáo Khoa Thư cũng có bài Ai Bảo Chăn Trâu Là Khổ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc.
Trong truyện tiếu lâm có chuyện Cống Quỳnh dùng trâu nghé đấu với trâu cổ của xứ nhà Thanh. Tôi xin nhấn mạnh rằng đây là một chuyện tiếu lâm nên đọc giả đừng xem đó là một chuyện thật đã xảy ra trong lịch sử.
Dấu hiệu của Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam (trước 1975) là con trâu tượng trưng cho sức cần lao.
Trong Tây Du Ký tác giả mô tả Lão Tử cỡi trâu xanh. Các nghệ nhân ở Việt Nam và Trung Hoa thường dùng hình ảnh mục đồng thổi sáo trên lưng trâu để nói lên cảnh thanh bình thịnh trị.
Trong ngôn ngữ Việt Nam đôi khi người ta dùng chữ “Trâu” như một hình dung từ để diễn tả cái gì to lớn như đỉa trâu ( Hirudo medicinalis ), muồng trâu ( Cassia alata ), cà phê trâu tức cà phê robusta ( Coffea robusta ) v.v.
Trong thực vật học có nhiều loại cây cỏ mang tên ngưu tộc. Người Anh cũng dùng những chữ ox, cow, buffalo, beef để đặt tên cho một số cây cỏ ở miền ôn đới và hàn đới như buffalo gourd (ngưu qua), buffalo grass (ngưu thảo), buffalo berry (ngưu mộc tử), beefwood hay horse tail tree ( ngưu nhục mộc tức cây phi lao hay cây dương mã vĩ mộc nhưng đừng nhầm với cây mã vĩ ở Bắc Bộ), cow herb (ngưu nãi thảo) v.v.
Ngưu bàng tử tức hột cây muồng hòe Cassia foetida có độc chất toxalbumin nhưng nếu rang hột thì độc chất mất đi. Ngưu bàng tử dùng để trị diêm da, hắc lào. Lá muồng tiêu xổ rất mạnh. Người ta dùng lá muồng trâu Cassia alata làm thuốc xổ cho thú vật.
Ngưu bàng Arctium lappa dùng trị mần ngứa, sốt xuất huyết, trái rạ.
Dã ngưu bàng hay tử uyển Aster tartaricus có nhiều ở miền hàn đới, dùng để trị bệnh ho lao, viêm phế quản.
Khiên ngưu (đất trâu) tức dây bìm bìm Ipomoea hederaceae có nhiều độc chất.
Ngưu tất (đầu gối bò) tức cỏ xước Achyranthes aspera có nhiều dọc theo thung lũng sông Hoài, tỉnh Hồ Nam , Trung Hoa. Ngưu tất dùng để trị tiểu đường, hạ huyết áp, đau lưng, đau khớp xương.
Ngưu thiệt (lưỡi bò) là cỏ chút chít Rumex aquatica dùng trị nướu răng rướm máu, xuất huyết da, mất máu, hoàng đản.
Ngưu nãi thị tức cây sim Rhodomyrtus tomentosa . Gỗ dùng làm thuốc nhuộm răng hay nhuộm chân mày đen. Nước sắc của lá dùng để trị tiêu chảy.
Đại kim ngưu Polygata glomerata dùng trị nghẽn phổi.
Dây sữa bò tức hà thủ ô trắng hay hà thủ ô Nam Tylophora juventas gây sự trẻ trung, có công dụng làm đen tóc như giao dằng tức hà thủ ô đỏ.
Ngưu tộc trong số đề và âm dương ngũ hành
Trong 40 số đề con trâu chiếm số 9 sau con thỏ (số 8) và trước con rồng nằm (số 10).
Năm sửu thuộc âm (-) nên ta chỉ có:
– Ất Sửu: 1865, 1925, 1985, 2045 (hành: Kim)
– Đinh Sửu: 1877, 1937, 1997, 2057 (hành: Thủy)
– Kỷ Sửu: 1889, 1949, 2009, 2069 (hành: Hỏa)
– Tân Sửu: 1901, 1961, 2021, 2081 (hành Thổ)
– Quí Sửu: 1913, 1973, 2033, 2093 (hành: Mộc)
Hợp với tuổi Sửu: Tỵ, Dậu, Tí.
Không hợp với tuổi Sửu: Thìn, Tuất, Mùi, Ngọ.
Đặc điểm chung của người sinh vào năm Sửu là có bịnh không nặng, không chết nhưng dây dưa gần như trọn đời.
Những năm Sửu quan trọng vào thế kỷ XX
1901: Tổng thống Hoa Kỳ Mc Kinley bị ám sát chết; Bát Quốc Liên Quân tiến vào Bắc Kinh; cải tổ hệ thống giáo dục ở Trung Hoa theo sáng kiến của Khang Hữu Vi (Kang Yu-wei) cho nữ phái đi học và theo học trình các nước Âu Mỹ; hiệp ước Bắc Kinh ký kết giữa Trung Hoa và đại diện tám nước. Trung Hoa bồi thường chiến phí 67, 5 triệu đồng bảng Anh (lối 6 tỷ 653 triệu Mỹ kim bây giờ).
1913: Những bạo động của Việt Nam Quang Phục Hội ở Hà Nội; Hoàng Hoa Thám bị ám sát; Hoa Kỳ phong tỏa Mễ Tây Cơ; Vĩnh Thụy chào đời (lúc ấy Khải Định chưa lên ngôi); Phan Bội Châu và Cường Để bị xử tử hình khiếm diện; Phan Bội Châu bị giam giữ ở Quảng Châu (1913 – 1917); khâm sứ Mahé cho đào lăng vua Tự Đức (Khiêm Lăng) để tìm vàng.
1925: Thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội; nhà cách mạng Phan Bội Châu bị bắt ở tô giới Pháp ở Thượng Hải (Shanghai) và bị đưa về Hà Nội; Tôn Dật Tiên (Sun Yat-sen) chết ở Bắc Kinh; vua Khải Định băng hà; Trotsky bị loại ra khỏi đảng Cộng Sản.
1937: Chánh phủ Mặt Trận Bình Dân (Front Populaire) của Léon Blum sụp đổ; chiến tranh Hoa Nhật bùng nổ (07-07-1937); chánh quyền Pháp ở Đông Dương kiểm soát báo chí và các đoàn thể chặt chẽ sau khi chánh phủ Léon Blum sụp đổ; cuộc đại thanh trừng do Stalin tiến hành ở Liên Sô.
1949: Hiệp ước Elysée (Bảo Đại – Vincent Auriol); Bảo Đại hồi loan; Cộng Sản Trung Hoa chiếm lục địa; sự ra đời của NATO (Minh Ước Bắc Đại Tây Dương); Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức), Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức); 11 lãnh tụ Cộng Sản Hoa Kỳ bị đưa ra tòa vì mưu đồ lật đổ chánh phủ.
1961: Vụ đổ bộ lên Vịnh Con Heo (Bahia de Cochinos mà người Anh gọi là Bay of Pigs); sự hình thành Peace Corp; trận đánh Phước Thành, Phước Bình; chuyến bay không gian có phi hành đoàn đầu tiên của Hoa Kỳ.
1973: Hiệp định Paris về Việt Nam; chiến dịch vẽ cờ và giành dân lấn đất ở Nam Việt Nam; vụ Watergate; phó tổng thống Agnew từ chức; Hoa Kỳ ngưng oanh tạc Cambodia.
1985: Gorbachev nắm quyền ở Liên Sô; một phi cơ của công ty TWA bị khủng bố giữ ở Athens, Hy Lạp; khủng bố Palestinans giữ một du thuyền Ý, Achille Lauro, bắt du khách làm con tin; hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Liên Sô ở Thụy Sĩ.
1997: Hong Kong được hoàn lại cho Trung Quốc; Đặng Tiểu Bình (Deng Xiao-ping) chết; cựu hoàng Bảo Đại mất ở Paris; Pol Pot ra lịnh giết Son Sen và gia đình; thảm sát ở làng Thalit, Algeria; Madeleine Albright, nữ bộ trưởng ngoại giao đầu tiên của Hoa Kỳ; công chúa Diana chết vì tai nạn xe hơi ở Paris.
Các nhà lãnh đạo tuổi Sửu trên thế giới
Các nhà lãnh đạo nổi tiếng trên thế giới sinh vào năm Sửu là: Cựu hoàng Bảo Đại (1913 – 1997); Richard Nixon (1913 – 1994), Gerald Ford (1913 – 2006); Antonio Salazaar (1889 -1970), nhà độc tài Bồ Đào Nha; Fulgencio Batista (1901 – 1959), nhà độc tài xứ Cuba; Benjamin Netanyahu (1949 - ), thủ tướng Do Thái; Menachem Begin (1913 – 1992), thủ tướng Do Thái; Willy Brandt (1913 -1992), thủ tướng Tây Đức; Stafford Cripps (1889 – 1952), chánh trị gia đảng Lao Động Anh; Erich Ludendorff (1865 – 1937), thống chế Đức, Margaret Thatcher (1925 - ), thủ tướng Anh; Warren Harding (1865 – 1923), tổng thống Hoa Kỳ,…
Richard Nixon là vị tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên từ chức năm 1974 sau vụ Watergate.
Gerald Ford là vị tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên không do dân bầu. Ông là trưởng khối thiểu số của đảng Cộng Hòa trong Hạ Viện. Năm 1973 phó tổng thống Agnew từ chức, tổng thống Nixon chọn ông làm phó tổng thống. Năm 1974 tổng thống Nixon từ chức, Gerald Ford trở thành tổng thống.
Menachem Begin là thủ lãnh đảng Likud đầu tiên được làm thủ tướng Do Thái kể từ khi lập quốc năm 1948. Năm 1978 ông và tổng thống Ai Cập Sadat gặp nhau trong trại David để tiến đến việc ký kết thỏa ước. Năm 1978 ông là thủ tướng Do Thái đầu tiên được lãnh giải thưởng Nobel hòa bình.
Bà Margaret Thatcher là vị nữ thủ tướng Anh đầu tiên trong lịch sử. Năm 1984 bà đến Bắc Kinh ký văn kiện hứa trao trả Hong Kong cho Trung Quốc vào năm 1997.
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy chào đời năm 1913 khi hoàng thân Bửu Đào chưa lên ngôi. Năm 1916 vua Duy Tân bị bắt sau cuộc khởi nghĩa bất thành ở Thừa Thiên, Quảng Nam . Bửu Đào được đưa lên ngôi tức là vua Khải Định (1916-1925). Năm 1922 thái tử Vĩnh Thụy sang Pháp cùng vua Khải Định dự cuộc đấu xảo ở Marseille. Vua Khải Định về nước, để thái tử Vĩnh Thụy ở lại Pháp học. Năm 1925 Vĩnh Thụy về nước chịu tang phụ vương Khải Định rồi trở lại Pháp tiếp tục việc học. Việc triều chính có nhiếp chính Tôn Thất Hân trông coi.
Bảo Đại là vị vua thứ 13 của nhà Nguyễn và cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ ở Việt Nam . Ông từ chức năm 1945 rồi trở về cầm quyền dưới tàn dù chánh trị của Pháp năm 1949 để rồi bị lật đổ lần thứ hai năm 1955. Ông mất ở Paris năm 1997.
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.