Nguyễn Hiền


Đại văn hào Harry Mulish qua đời

 

Harry Mulisch, 2010

 

Ngày 30/10/2010, Harry Mulish, cây đại thụ trong văn giới Hòa Lan đương đại đã qua đời sau một thời gian chống chọi với bệnh ung thư.

Harry Kurt Victor Mulish sinh ngày 29/07/1927 tại Haarlem. Cha ông là một người Hung gốc Áo, mẹ là người Do Thái. Ông bắt đầu học viết văn từ nhỏ. Năm ông chín tuổi, cha mẹ ông ly dị, tiếp theo là cuộc thế chiến thứ hai bùng nổ, cha ông hợp tác với phe Đức. Nhờ vị thế này, cha ông đã có thể che chở cho ông (và cả mẹ ông nữa) thoát khỏi sự ruồng bố người Do Thái. Sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt, cha ông lại bị bắt vì tội hợp tác với giặc. Chiến tranh với những mặt phức tạp của nó vì thế đã in dấu trên nhiều tác phẩm của ông. Có cái gì đó mù mờ giữa đúng và sai, gữa công và tội.

Năm 1944 Harry Mulish bỏ trường và từ đó tự học trong trường đời. Khởi thủy ông viết những sách hóa học phổ thông là chính, chỉ cho đến khi truyện ngắn 'De kamer'  (Căn phòng) của ông xuất hiện trên tuần san Elseviers Weekblad, văn tài của ông mới được nhiều người biết. Trong khi đó, ông lại say mê với kịch nghệ và có nhiều hoạt động trong lãnh vực tâm linh huyền bí. Phải đợi tới năm 1952, tác phẩm đầu tay của ông, 'Archibald Strohalm' ra đời và được trao giải văn chương Reina Prinsen Geerlings, ông mới chuyển sang lãnh vực văn chương thuần túy.

Qua rất nhiều tác phẩm Harry Mulish đã xuất bản, người ta có thể phân chúng thành 4 thời kỳ:

– Thời kỳ 1952-1959: mang nặng sắc thái tâm linh, ma thuật và huyền thoại, với những tác phẩm như 'Archibald Strohalm' kể trên, hay 'De sprongen der paarden en de zoete zee' (Những bước nhảy của ngựa và biển ngọt ngào), 'Het Mirakel' (Sự Mầu Nhiệm), 'Het zwarte licht' (Tia sáng đen) v.v...

– Thời kỳ  1959-1972: Những tác phẩm trong thời gian này là những báo động về hiểm họa một cuộc chiến tranh nguyên tử, như kịch bản 'De knop' (Cái nút), 'De zaak 40/61' (Vụ án 40/61, trong đó ông viết về vụ xử tội phạm chiến tranh Adolf Eichmann), 'De toekomst van gisteren' (Tương lai của hôm qua) v.v..., trong thời gian này ông biểu lộ khuynh hướng tả phái, thiên Mác-Xít.

– Thời kỳ 1972-1982: Trong thời kỳ này ông từ bỏ những ràng buộc trong suy nghĩ về những vấn đề chính trị thế giới, để xoáy vào những vấn đề triết học và tâm lý học, đào sâu huyền thoại Oedips qua kịch bản 'Oidipous Oidipous', tập thơ 'De wijn is drinkbaar dankzij het glas' (Nhờ cái ly mà uống được rượu)... và nổi tiếng qua tác phẩm 'Twee vrouwen' (Hai người đàn bà).

– Thời kỳ 1982-2010: với những tác phẩm mang nhiều triết lý sống trong những đề tài lớn, đã đưa ông lên tột đỉnh đài danh vọng: 'De Aanslag' (Mưu sát), tác phẩm này đã được dựng thành phim và được dịch ra nhiều thứ tiếng, và 'De ontdekking van de hemel' (Khám phá bầu trời), một đại tác phẩm dày 901 trang với 65 chương, trong đó mọi vấn đề triết lý và huyền sử được ông soi rọi.

Harry Mulish là cây bút có nhiều tác phẩm được dịch ra ngoại ngữ nhất trong lịch sử văn chương Hòa Lan. Tác phẩm của ông đã xuất hiện qua hơn 30 ngôn ngữ. Nhà văn/thơ Cao Xuân Tứ ở Hòa Lan đã dịch tác phẩm 'De Aanslag' ra Việt ngữ (bấm vào đây để xem thêm chi tiết). Ông đã nhận hơn 30 giải văn chương cho những tác phẩm của ông và có nhiều lần được đề cử lĩnh giải Nobel, tiếc thay cơ hội này chưa đến thì ông qua đời. Tên ông vào năm 2006 đã được đặt cho tiểu hành tinh (platenoid) có số hiệu 10251. Không ai chối cãi văn tài Harry Mulish, nhưng khi sinh thời, nhiều người chỉ trích ông là cao ngạo và cay nghiệt trong lời văn.

Ngoài sáng tác, Harry Mulish còn giữ nhiệm vụ biên tập cho những tạp chí văn chương Podium, Randstad và De Gids, là thành viên ban lãnh đạo nhà xuất bản De Bezige Bij.

Sau tang lễ trọng thể dành cho ông ngày 06/11/2010, thi hài của ông đã được an táng trong nghĩa trang Zorgvlied, nơi yên nghỉ của những nhân vật danh tiếng của Hòa Lan.

 

Nguyễn Hiền

 


Cái Đình - 2010