Phạm Ðình Lân


Dây Chùm Bao và thân thuộc

 

Hoa chùm bao
Trái chùm bao (xanh)
Trái chùm bao (chín)

 Dây chùm bao còn được gọi là dây nhãn lồng, lồng đèn, lạc tiên mang tên khoa học Passiflora foetida thuộc gia đình Passifloraceae hoàn toàn khác với cây chùm bao tức đại phong tử Hydnocarpus anthelmintica thuộc gia đình Flacourtiaceae. Hột của cây chùm bao đại phong tử nầy là nguồn dầu chaumoogra được dùng để trị phong hủi ở Ấn Ðộ và Cambodia.

Thân thuộc của dây chùm bao là các loại thảo mộc dòng Passiflora và gia đình Passifloraceae như các loại dây có trái ăn được và có hoa màu tím-trắng hay màu xanh-trắng giống như mặt đồng hồ rất đẹp. Người Anh gọi những trái đó là Passion fruit và hoa của dòng PassifloraPassion flower. Chữ Passion ở đây không có nghĩa là sự đam mê như thường thấy. Theo gốc Hy Lạp Pascho và La Tinh Passio thì chữ passion ở đây có nghĩa là sự đau khổ, thống khổ.

 

Dây Chùm bao

Dây chùm bao hay lạc tiên là một loại dây cứng, có lông; lá có thùy màu xanh nhạt và có lông. Hoa màu trắng-tím; nhụy vàng với những cọng xanh như sợi chỉ ở chính giữa. Trái được bao bởi một lớp lưới mịn có lông màu xanh. Khi chín trái chuyển sang màu vàng cam. Trái ăn được nhưng không ngon. Chữ foetida trong tên khoa học của dây chùm bao có nghĩa là xú hương. Thực tế dây chùm bao không hôi thối gì cả. Lá và dây chỉ toát mùi nồng khó chịu khi bị vò nát. Mùi nồng đó là dược tính của loại thảo mộc nầy vậy. Người Anh gọi hoa chùm bao là Goat-scented passion flower, stinking passion flower vì mùi hôi nồng nầy. Người Pháp gọi là Passiflore fetide; Tây Ban Nha: granadilla colorada; Ấn Ðộ: mukkopeera.

Sinh quán của dây chùm bao là Mỹ Châu nhiệt đới và các hải đảo trong biển Caribbean. Chùm bao được tìm thấy khắp các vùng nhiệt đới và khí hậu đại dương trên thế giới ngoại trừ Nam Băng Châu. Lá, hột, hoa, rễ chùm bao được dùng làm thuốc. Ở Việt Nam lá chùm bao được xem là hượt trường và dùng để trợ tim cho người lo lắng, suy tinh thần và mất ngủ. Chùm bao có cyanohydrin glycosides với chuỗi cyclopentene, tetraphyllin A, tetraphyllin B, sulfate, deidaclin volkenin. Rễ, lá, trái chùm bao có khả năng kháng bướu. Rễ chùm bao có alkaloid passiflorine dùng làm thuốc trị bịnh tim. Nhìn chung chùm bao nhuận trường và có khả năng trị các chứng mất ngủ, lo âu, thần kinh căng thẳng, ruột quặn đau, suyễn, cao huyết áp, bịnh zona, một loại bịnh ngoài da do trùng Varicella zoster gây ra. Phụ nữ có thai không được dùng thuốc bào chế từ dây chùm bao.

Chim quyên ăn trái nhãn lồng,
Lia thia quen chậu,
Vợ chồng quen hơi.

Trái nhãn lồng ở đây có phải là trái chùm bao không? hay long nhãn? hay trái nhãn lồng, một loại trái tròn, nhỏ, da vàng nhạt, cơm trắng và mỏng, mọc hoang trong rừng?

Theo người viết, nhãn lồng ở đây là tên riêng của trái chùm bao. Trái chùm bao có passiflorine gây ghiền và gây buồn ngủ. Có thế mới hợp với hai câu sau lia thia quen chậuvợ chồng quen hơi. Trái chùm bao có một lưới bao bên ngoài như cảnh con cá trong chậu, con chim trong lồng. Nhưng dần dà con cá quen và ưa thích cái chậu, con chim quyên yêu thích cái lồng như chim quyên ghiền ăn trái nhãn lồng (chùm bao) do tác dụng của passiflorine mà ra. Việc ăn trái chùm bao dễ hơn là ăn trái long nhãn trong lồng tre hay trái nhãn lồng mọc hoang và tương đối hiếm hoi nên ít được biết đến.

 

Thân thuộc của Chùm bao

Thân thuộc của lạc tiên dòng Passiflora rất đông đảo ở miền nhiệt đới, bán nhiệt đới Bắc và Nam bán cầu. Như đã nói, hoa của dòng Passiflora được gọi là Passion flowers tức Thống Khổ Hoa và trái là Passion fruit tức Thống Khổ Qua. Bốn thân thuộc gần có giá trị kinh-thương và y dược trị liệu của dây chùm bao là:

Passiflora grandiflora hay Passiflora macrocarpa (vì có hoa to và trái to như trái dưa gang). Trái gọi chung là thống khổ quả hay dưa Tây (vì giống trái dưa gang và xuất phát từ phương Tây– Mỹ Châu)

Passiflora edulis

Passiflora caerulea

Passiflora incarnata

Cả bốn loài dây trên đều có hoa giống nhau. Dây Passiflora grandiflora có hoa màu tím-trắng rất to.

Hoa của dây Passiflora edulis cũng giống như hoa của dây Passiflora grandiflora nhưng hoa nhỏ hơn và cũng có hai màu trắng và tím. Màu tím có thể đậm hay nhạt. Nhụy dầy đặc những sợi chỉ nhỏ. Giữa hoa có ba điểm trắng nằm song song với mặt phẳng của hoa.

Hoa của dây Passiflora caerulea cũng giống như hai loài hoa vừa kể nhưng màu xanh. Thực sự hoa có hai màu: trắng và xanh dương. Người Anh gọi là Blue passion flower (Thanh Hoa Thống Khổ). Ðó là quốc hoa của xứ Paraguay.

Hoa của dây Passiflora incarnata màu tím sậm. Phần màu trắng hầu như không đáng kể. Vì vậy người Anh gọi là Purple passion flower (hoa thống khổ màu tím). Hoa thống khổ màu tím này là hoa biểu tượng của tiểu bang Tennessee.

Trong Thần Học Thiên Chúa Giáo hoa của dòng Passiflora được gọi là Thống Khổ Hoa vì nó tượng trưng cho sự đau đớn, thống khổ của Chúa Jesus khi bị đóng đinh trên cây Thánh Giá.

a. Hoa có hai màu: trắng và xanh. Màu trắng tượng trưng cho sự thanh khiết và màu xanh tượng trưng cho Thiên Ðình.

b. Hoa có 10 cánh tượng trưng cho 10 đệ tử đầu tiên của Chúa Jesus và 10 Thánh Tông Ðồ ngoại trừ Thánh Peter (tiếng Pháp: Pierre) vi đã chối Chúa và Judas Iscariot đã phản Chúa.

c. Các sợi chỉ bao quanh các cánh hoa được ví như:

1. Lá gai trên mũ gai mà Chúa Jesus đội trong ngày bị đóng đinh (espinas de Cristo)
2. Là những vết roi quất vào người Chúa trên đường đi đến đồi Golgotha để bị đóng đinh trên Thánh Giá.

d. Ba vệt trắng giữa hoa tượng trưng cho 3 cây đinh. Năm bao phấn hoa tượng trưng cho 5 vết thương gồm 4 vết bị đóng đinh và một vết trên người vì bị đâm bằng cây thương.

Biểu tượng trên giải thích nguồn gốc của chữ Passion với nghĩa đau đớn, thống khổ chớ không phải là sự đam mê.

Dây Passiflora grandiflora có trái to màu xanh thật nhạt. Cơm trắng; hột hồng nhạt. Cơm có vị ngọt. Người ta ăn trái dưa Tây này với đường và đá bào. Trái chín dùng làm nước giải khát, kem hay cất rượu. Loại dưa Tây này xuất hiện ở miền Nam Việt Nam vào thập niên 1960. Muốn cho dưa Tây có nhiều trái người ta phải làm giàn cho dây leo để có đầy đủ ánh sáng mặt trời. Một dây có thể cho từ 70 đến 100 trái. Trái dưa Tây dịch sát nghĩa của chữ passion fruitthống khổ quả có sinh tố C, carotene, phosphorus, chất sắt, vôi, niacin, riboflavin v.v…

Passiflorine, một alkaloid lấy từ rễ loại thảo mộc dòng Passiflora gây ghiền và buồn ngủ nên được xem là bổ tim.

Hột dưa Tây trợ tim, nhuận trường, gây say.

Lá có cyanogenic glycosides độc. Nhưng đem nấu thì độc chất biến đi. Lá dưa Tây sắc nước làm trà uống để trị tiểu đường và làm hạ huyết áp.

Rễ và dây dưa Tây trị đau bụng, scorbutus (bịnh do thiếu sinh tố C), gây nôn, nhuận tiểu, trị lãi v.v…

Dây Passiflora edulis có lá láng màu xanh sậm. Trái tròn và to như trái cam; vỏ màu tím-đen; cơm màu vàng nhạt; hột đen. Loại nầy được tìm thấy nhiều ở Florida, các đảo trong biển Caribbean, Trung và Nam Mỹ nhiệt đới. Người ta xay cơm vàng của thống khổ quả để làm nước giải khát với màu cam rất đẹp. Dân Trung, Nam Mỹ, hải đảo trong biển Caribbean dùng cơm vàng của thống khổ quả làm thức uống, kem mousse. Ở Do Thái người ta dùng trái thống khổ quả từ dây Passiflora edulis để cất một loại rượu có màu vàng rất đẹp: rượu Sicar. Thống khổ quả này có sinh tố C, beta carotene, Fe, Ca, phosphorus, B2, B3, B9, lycopene C40 H56. Lycopene có nhiều trong trái cà-tô-mát, trái strawberry. Nó có tác dụng ngừa ung thư nhất là ung thư tuyến tiền liệt (prostate cancer).

Dây Passiflora caerulea có trái chín vàng rất đẹp. Trái to bằng trái cam. Cơm màu vàng sậm với nhiều hột đỏ tươi. Loại thống khổ quả nầy cũng ăn được nhưng không được hưởng ứng nhiều bằng hai loại Passiflora grandifloraPassiflora edulis. Trái ăn sống hay nấu chín nếu trái chưa chín. Hoa được dùng để làm si-rô. Người ta nấu hoa xanh của dây Passiflora caerulea làm trà uống để dễ ngủ và chống lo âu, phiền não.

Dây Passiflora incarnata mang nhiều tên gọi thông thường như Apricot vine (dây trái mơ), wild apricot (trái mơ hoang), purple passion flower (hoa thống khổ màu tím), maypo. Người Trung và Nam Mỹ gọi là maracuja. Thống khổ quả tròn và lớn hơn trái chanh. Khi chín trái chuyển sang màu vàng cam. Trái ăn ngon và được dùng làm thức uống, nước giải khát, thạch, kem sệt hay cất rượu.

Hoa, lá và rễ dây Passiflora incarnata được dùng làm thuốc. Nó có benzoflavone, serotonin, maltol, chrysin, alpha- alanine, apigenin, aribine, ac xit citric, harmaline, harmane, harmol, saponarine v.v…

Chrysin có tác dụng chống sự lo âu (anxiolytic).

Benzoflavone chống sự lão hóa testosterone và sản xuất estrogen. Nên thống khổ hoa tím và trái cũng có tính kích dục, trị nghiện rượu, nghiện thuốc là (nicotine), nghiện á phiện (morphine), ho, suyễn.

Thổ dân ở Mỹ Châu dùng lá Passiflora incarnata như thuốc hượt trường, thuốc giảm đau nhức, trị tiêu chảy, kiết lỵ, kinh nguyệt bất thường, mất ngủ, động kinh, co giật. Trái trị ho và là thuốc bổ tim.

*

Ðiểm nổi bật của thảo mộc dòng Passiflora, gia đình Passifloraceae là:

Alkaloid passiflorine dùng làm thuốc trợ tim trị mất ngủ, lo âu. Rễ của các dây dòng Passiflora có nhiều passiflorine hơn cả.

– Hoa nhiều cánh tựa như mặt đồng hồ hay mặt trời có nhiều tia sáng. Hoa của thảo mộc dòng Passiflora được xem là biểu tượng của sự thống khổ của Chúa Jesus ngày bị đóng đinh trên cây Thánh Giá.

– Trái của thảo mộc dòng Passiflora có nhiều sinh tố nhất là sinh tố C, B2, B3, B9, protein, carotene, chất sắt, vôi, phosphorus, magnesium, potassium, lycopene v.v... Thống khổ quả của dây Passiflora edulis, Passiflora grandifloraPassiflora incarnata là trái cây được ưa thích và có nhiều công dụng, kể cả công dụng trị bịnh và ngừa bịnh.

 

Phạm Ðình Lân, F.A.B.I.

 


Cái Đình - 2011