Văn Học Việt Nam


Sơ lược tiểu sử tác giả

Trần Bích San là bút hiệu của Trần Gia Thái, Ph.D. Gia đình theo đạo Nho.

Thân phụ: Vị Giang Trần Gia Phúc. Thân mẫu: Lê Thị Soan.

Sinh ngày 31 tháng 08, 1940 (28 tháng 07 Canh Thìn, giờ Thìn). Sinh quán: làng Sùng Văn, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

Học vấn tại Việt Nam:

- 1946 tản cư về quê ngoại làng Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam thụ giáo cụ Đạo Vị Thượng.
- 1950 hồi cư về thành theo học trường Bến Ngự (Nam Định), Nguyễn Du, Nguyễn Huệ (Hà Nội).
- 1954 di cư vào Nam theo học trường Trần Lục, Hàn Thuyên, Chu Văn An, Luật Khoa (Sài Gòn).

Học vấn tại Hoa Kỳ:

- Cử Nhân Khoa Học (GWU, 1979).
- Cao Học (TU, 1995).
- Tiến Sĩ Summa Cum Laude (WU, 2005).

Lãnh vực báo chí, văn học:

- Chủ Bút nguyệt san Lên Đường (1987).
- Chủ trương tuần báo Sàigòn Nhỏ New Orleans (1994-2016).
- Chủ Bút tạp chí văn học Cỏ Thơm (2008-2018).
- Đồng sáng lập website Việt Thức (2010).

Được biết, bút hiệu Trần Bích San được tác giả chọn là để tiếp tục công việc văn chương còn dở dang của cụ cố nội Trần Bích San, tức Tam nguyên Vị Xuyên, đậu đầu liên tiếp ba kỳ thi Hương (năm 1864), thi Hội và thi Đình (năm 1865) dưới Triều Tự Đức, và cũng là nhà thơ nổi tiếng của thế kỷ 19.

***

.

Tựa

Nhiệm vụ người cầm bút một đề tài xưa cũ mà vẫn còn như mới. Cũ, bởi từ khi có văn tự, có tác phẩn văn chương các tác gia từ nghìn xưa đã băn khoăn thao thức đi tìm ý nghĩa cho việc trước tác. Mới, vì bất kỳ người cầm bút có ý thức khi chọn nghiệp văn có lúc phải tự hỏi: “viết để làm gì? viết cho ai?”. Từ nghìn xưa tới ngàn sau chắc chắn những người làm văn học nghệ thuật phải suy tư về nhiệm vụ của mình.

Qua tư tưởng chứa đựng trong văn nghiệp ta có thể tìm thấy mục đích trước tác nằm trong tác phẩm của nhà văn. Trước tiên, quan niệm của nhà Nho, văn được dùng làm sáng tỏ đạo “văn dĩ minh đạo” và văn để chở đạo “văn dĩ tải đạo”. Các văn gia thuở trước cho rằng trước thư, lập ngôn là sứ mệnh cao quý của Nho gia. Tuy nhiên, với tinh thần khiêm tốn các tác gia ngày xưa không muốn phô trương tác phẩm ra công chúng mà chỉ dành cho bạn hữu thưởng thức, sau đó lưu lại trong gia thư. Từ thế kỷ thứ 19 trở về trước, công việc trước tác được coi như một thứ nghiệp dư. Sự nghiệp chính là công danh, thi cử đỗ đạt, tham gia việc nước.

Trong khung cảnh xã hội đề cao khoa cử, quan niệm văn dĩ tải đạo chỉ đem lại cho văn học các tác phẩm về sử ký, địa lý, có tính cách sưu tập, ghi chêp những dấu tích của thời đại tác gia đang sống hoặc các giai đoạn trước đó. Văn gia coi đó như những vốn liếng quý báu của dân tộc cần được gìn giữ, truyền lại cho hậu thế. Phần còn lại là sáng tác văn thơ biểu thị nhu cầu tưởng tượng, giải tỏa thất tình, hay đi tìm ý nghĩa sự vật hoặc đời sống con người.

Năm 1865 sáu tỉnh Nam Kỳ mất hẳn vào tay người Pháp, tiếp theo cả nước bị thôn tính bằng hòa ước Patenôtre 1884. Trước nạn nước, trong giai đoạn này người cầm bút quan niệm nhiệm vụ của họ là sáng tác thơ văn cổ động lòng yêu nước, đánh đuổi người Pháp giành lại độc lập cho quốc gia.

Sang đầu thế kỷ 20, sinh hoạt văn học bước vào giai đoạn lịch sử mới, người cầm bút quan niệm sứ mạng theo một chiều hướng khác.

Đông Dương Tạp Chí dùng cơn gió duy tân lay động, hối thúc xã hội cổ truyền Việt Nam lột xác để theo kịp sự tiến bộ của Tây phương.

Nam Phong Tạp Chí  quay về quá khứ khai thác những giá tri cổ học với mục đích bảo tồn quốc hồn quốc túy, phát huy cái vốn tinh thần sẵn có. Đồng thời, cổ súy nuôi dưỡng, phát triển, xây dựng nền quốc học để giữ bản sắc riêng, không bị tha hóa. Phạm Quỳnh từng tuyên bố nhiều lần tất cả công trình viết lách của ông trên Nam Phong nhằm vào công cuộc hướng dẫn quốc dân bồi đắp tinh thần, thực hành chủ nghĩa quốc gia về đường văn hóa. Ông dịch thuật tư tưởng Tây phương để làm vật liệu cần thiết trong việc xây dựng nền văn hóa quốc gia thêm phong phú.

Tờ Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng quan niệm dùng ngòi bút giữ gìn đạo lý, nền nếp xưa, lý tưởng Khổng Mạnh không sợ, không tham, không hèn. Những giá trị cũ vẫn không lạc hậu, lỗi thời nếu phát huy đúng chỗ. Huỳnh Thúc Kháng được Tản Đà tiếp tay với thuyết Thiên Lương và Trần Trọng Kim với bộ Nho Giáo.

Lê Văn Trương đưa ra mẫu người hùng với triết lý sức mạnh. Trong 12 năm hơn 180 tác phẩm tràn ngập, ngự trị xã hội Việt Nam từ 1934 đến 1945. Các sáng tác của ông mang nguồn sinh lực, sức sống mới tạo được ảnh hưởng, đáp ứng truyền thống trọng đạo lý của dân tộc Việt đang bị làn sóng vật chất, chủ nghĩa cá nhân Tây phương xô đẩy.

Nhiệm vụ nhà văn với Tự Lực Văn Đoàn là cổ võ theo mới, cấp tiến, đả phá tư tưởng chán đời, hủ tục, thói rởm chuộng hư danh, thay đổi đời sống cơ cực của dân quê. Nhất Linh, người sáng lập Tự Lực Văn Đoàn trả lời Nguyễn Ngu Í lý do tại sao ông đỗ đầu vào trường Mỹ Thuật Đông Dương mà lại bỏ: “Mang giá cọ theo cụ Tác (họa sư Pháp Victor Tardieu) về nhà quê tôi thấy đời sống dân quê cơ cực tối tăm quá cần phải làm gì cho lớp đồng bào ấy mà giá cọ không giúp được gì thì phải bỏ qua một bên”.

Thiên chức nhà văn được Thạch Lam đưa ra trên tờ Phong Hóa: “Nhà văn không được dạy đời hay giảng luân lý. Nhà văn không giãi bày hay thuyết phục. Thiên chức của nhà văn là phải diễn tả sự thực, và chỉ có những cảm giác thực mới có tác động và vang động sâu xa trong tâm hồn độc giả. Thái độ giả dối trốn tránh sự thật đã sinh ra biết bao thương tâm trong lòng người, trong gia đình và trong xã hội”.

Thời tiền chiến có cuộc tranh luận đặc biệt kéo dài tới 4 năm lôi cuốn 15 người cầm bút về vấn đề sáng tác phục vụ cho cái gì, nghệ thuật hay nhân sinh?

Phái vị nhân sinh cho rằng loại nhà văn chỉ biết có nghệ thuật là bọn người ích kỷ. Cái hay cái đẹp thuần túy không giúp được gì cho đời sống. Văn chương là sản phẩm của con người, của thời đại. Văn chương không thể bay bổng trên xã hội. Nhà văn không thể ra khỏi thời đại họ đang sống.

Phái vị nghệ thuật đồng ý rằng nghệ thuật không thể độc lập với sinh hoạt nhân loại, văn chương không thể bỏ quên số đông nghèo khổ, nhưng nhà văn chỉ tả tâm tình, cảnh ngộ con người một cách nghệ thuật, trung thực. Vấn đề bất công, cải tạo xã hội không phải việc làm của nhà văn. Nhiệm vụ nhà văn là bằng tác phẩm giúp độc giả tìm giải thoát cho tâm hồn khỏi cuộc đời nhiều hệ lụy, tận hưởng những giây phút say sưa với cái đẹp mà tạo hóa ban cho. Sứ mạng của văn chương là khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ làm cho cuộc đời phù phiếm, chật hẹp trở nên thâm trầm, rộng rãi, cuộc đời có ý nghĩa sâu rộng, cao cả. Nghệ thuật phải giúp ánh sáng cho những con người giả tìm về bản chất con người thật, con người muôn thuở.

Sứ mạng nhà văn được Konstantin Paustovsky trình bày như sau:

Nếu đi sâu vào tận cùng âm hưởng của từ ngữ chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa ban đầu của hai chữ sứ mạng. Sứ mạng hàm ngụ ý kêu gọi thiêng liêng. Chẳng ai kêu gọi con người đi làm chuyện vặt vãnh bao giờ. Con người kêu gọi con người thực hiện những nhiệm vụ cao cả, hoàn tất những công việc khó khăn.

Cái gì đã thúc đẩy nhà văn tự nhận lãnh lấy công việc tuyệt vời nhưng đầy gian nan và cay đắng đó? Trước hết là tiếng gọi của chính trái tim nhà văn. Tiếng gọi tha thiết của lương tâm, của niềm tin mãnh liệt vào tương lai không cho phép một người cầm bút chân chính giữ những tư tưởng phong phú, những tình cảm tràn trề làm của riêng cho tâm hồn mình, không chịu chuyển giao cho người khác một cách trọn vẹn.

Nếu một người cầm bút không làm cho nhãn quan của con người sáng thêm lên, dù chỉ một chút thôi, người cầm bút đó không phải là nhà văn.

Nhưng một người trở thành nhà văn không phải chỉ thuần túy vì tiếng gọi của con tim. Hồi trẻ, tất cả chúng ta đều nghe thấy tiếng gọi của trái tim không biết bao nhiêu lần bởi cái thế giới tươi mát của tình cảm trong tâm hồn chúng ta chưa bị cuộc đời tàn bạo bóp chết, chưa bị những oan khiên hệ lụy đập tan thành từng mảnh. Như thế, ngoài tiếng gọi của con tim nhà văn còn nghe thấy tiếng gọi khác mãnh liệt hơn. Đó là tiếng gọi của dân tộc, của thời đại nhà văn đang sống, và của nhân loại nữa.

Theo mệnh lệnh của sứ mạng, nhà văn có thể làm được những điều kỳ diệu, chịu đựng được các thử thách cam go. Nhà văn không thể chùn bước hay đầu hàng, dù chỉ trong giây phút, trước những chướng ngại hay thất bại.

Quan niệm về nhiệm vụ nhà văn có thể thay đổi theo thời gian, không gian, theo hoàn cảnh xã hội, chính trị, nhưng dù bất cứ ở đâu, thời nào thì sứ mạng người cầm bút chân chính là tiếp tục công việc chính đáng của tiền nhân, thực hiện những ủy thác của dân tộc, thời đại và nhân loại.

Lập thân tối hạ thị văn chương. Biết nhưng vẫn chọn, phải chăng nghiệp văn do định mệnh an bài, một thiên chức?

***

Có những mốc thời gian đánh dấu các giai đoạn quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam cận đại:

- Năm 1907 Đông Dương Tạp Chí của Nguyễn Văn Vĩnh ra đời chấm dứt nền văn chương chữ Nôm, chữ Nho, khởi đầu việc đại chúng hóa văn Chữ Quốc Ngữ.
- Năm 1932 phong trào thơ mới bắt đầu cùng với Tự Lực Văn Đoàn với chủ trương bỏ cũ theo mới.
- Năm 1946 văn chương lãng mạn đi vào bóng tối nhường chỗ cho thơ văn thời chiến.

Trước khi văn học thời chiến tranh thực sự bắt đầu đã có một thời kỳ chuyển tiếp, đó là giai đoạn 1939 - 1945. Văn học thường đi sau chính trị, nhưng trong trường hợp bất thường này, văn học đi trước chính trị. Các biến động liên tục của thời cuộc tạo ra những suy tư băn khoăn, thôi thúc giới cầm bút, đưa đến việc sửa soạn cho tương lai đất nước.

Thế chiến thứ II bắt đầu năm 1939 đem lại những biến đổi tại Đông Dương ảnh hưởng nặng nề trên tư duy giới trí thức, thay đổi hướng sáng tác nhà văn. Người cầm bút quy tụ vào một số cơ quan ngôn luận cùng theo đuổi, thực hiện mục đích chung.

Cuối tháng 08, 1939 Pháp khai chiến với Đức, Đông Dương là thuộc địa của Pháp nhưng ở xa mẫu quốc nên không bị chiến tranh ảnh hưởng trực tiếp, nhưng quân đội Nhật Bản với giấc mộng Đại Đông Á là mối hiểm họa kề bên.

Từ 1937 Nhật bắt đầu thôn tính Trung Hoa, nhòm ngó Đông Dương. Cuối tháng 09, 1939 quân Nhật ở Quảng Đông tiến vào Quảng Tây, tướng Nhật đến Hà Nội thương thuyết với Pháp yêu cầu đóng cửa biên giới ngăn chận sự tiếp vận vũ khí cho Tàu qua ngả Việt Nam. Toàn Quyền Georges Catroux đồng ý nhưng không chịu cho Nhật kiểm soát.

Để đề phòng biến loạn, chính phủ bảo hộ Pháp bắt đưa đi an trí hầu hết những người Việt thuộc đủ các xu hướng chính trị mà họ cho là có thể phương hại đến an ninh, trật tự. Khi Pháp đầu hàng Đức vào tháng 06, 1940 chính quyền ở Đông Dương hòa hoãn với Nhật.

Ngày 19 tháng 06, 1940 Nhật gửi tối hậu thư đòi Pháp trong vòng 24 giờ phải chấm dứt việc cho Tưởng Giới Thạch sử dụng đường tiếp vận bằng ngả Hải Phòng và nhận phái đoàn kiểm soát của Nhật ở Bắc Kỳ. Ngày 20 tháng 06 Toàn Quyền Catroux miễn cưỡng chấp nhận..

Ngày 11 tháng 07, 1940 quốc hội Pháp với số phiếu 569/80 quyết định chấm dứt nền Đệ Tam Cộng Hòa (1871 - 1940) đưa thống chế Pétain lúc đó 84 tuổi lên làm Quốc Trưởng. Tân Bộ Trưởng Thuộc Địa Lémery bổ nhiệm Phó Đô Đốc Jean Decoux, Tư Lệnh Hải Quân Pháp tại Viễn Đông, thay thế Catroux trong chức vụ Toàn Quyền Đông Dương.

Tháng 08, 1949 Nhật gia tăng áp lực đòi sử dụng các phi trường ở Đông Dương, cảng Hải Phòng để chuyển quân đánh Tàu. Ngày 22 tháng 09, Pháp chưa trả lời, Nhật tung quân bất ngờ đánh úp Lạng Sơn, đổ bộ vào Hải Phòng. Tại Hà Nội, Pháp ký nhận tất cả các yêu sách của Nhật.

Tháng 07, 1941 Nhật ép Pháp gia nhập Đông Dương vào vùng thịnh vượng chung và ký kết hiệp ước phòng thủ Pháp-Nhật. Chính phủ Vichy ký thỏa ước cho phép Nhật đóng quân ở Đông Dương. Đến ngày 08 tháng 12, 1941 chính phủ lưu vong De Gaulle của Pháp ở Anh chính thức khai chiến với Nhật.

Cho tới cuối năm 1941 Nhật hoàn tất việc thiết lập các cơ sở Hiến Binh trên toàn cõi Đông Dương. Nhật để Pháp điều khiển guồng máy cai trị nhưng kiểm soát về mặt chính trị, bắt Pháp cung cấp nhiên liệu, lương thực, quân phí cho quân đội Nhật.

Để chống lại chủ nghĩa cá nhân vị kỷ là nguyên nhân đưa đến chiến bại, Thống Chế Pétain đề xướng cuộc cách mạng với khẩu hiệu Cần Lao, Gia Đình, Tổ Quốc. Chính sách này được chính quyền bảo hộ Pháp ở Đông Dương thực hiện bằng đường lối phục hưng, bảo tồn các giá trị cổ điển nhằm giữ vững trật tự xã hội.

Trong giai đoạn này giới trí thức Việt cả tân lẫn cựu học đều quay về quá khứ, phát huy tinh hoa cổ học. Nhiều tác gia trẻ tiếp tục giải quyết những vấn đề còn dở dang do nhóm Nam Phong để lại như việc thu nhập giá trị Tây phương, phối hợp văn hóa Đông Tây về học thuật, giáo dục. Các nhóm văn thành hình đáp ứng với nhu cầu cấp thiết của đất nước có Tri Tân, Thanh Nghị, Hàn Thuyên. Chủ trương, đường lối đều nhằm vào mục đích vạch hướng đi về phần tư tưởng cho dân tộc.

Thanh Nghị

Nhóm Thanh Nghị, Chủ Nhiệm là Vũ Đình Hòe, quy tụ giới trí thức trẻ xuất thân đại học Pháp, đem cái học thu nhập được ra áp dụng vào việc phê bình, sáng tác. Họ sử dụng mẫu mực Tây Phuơng soi đường nhưng vẫn giữ được cá tính Việt. “Ta cần phải có một bản sắc riêng, ta cần phải có gan chỉ là Ta” (Lê Văn Huy, Nghĩ Về Văn Học Việt Nam Hiện Đại).

Thanh Nghị chuyên về khảo luận chủ trương “thông hiểu sự vật và tư tưởng, đứng ra thu nhặt tài liệu để đóng góp vào việc giải quyết những vấn đề quan hệ đến đời sống dân tộc Việt Nam:.

Báo ra mắt độc giả vào tháng 06, 1941 dưới hình thức nguyệt san. Đến tháng 05, 1942 đổi thành bán nguyệt san. Tới đầu năm 1944 trở thành tuần báo để đáp ứng với thời cuộc sôi động.

Để có được tòa nhà văn hóa xứng đáng cần phải tạo một cái nền vững chắc. Vì vậy, các tác gia thông hiểu Nho học tìm về những giá trị cổ Đông phương. Nội dung Thanh Nghị về lãnh vực chính trị có Vũ Văn Hiền, Phan Anh; sử học với Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Thiệu Lâu, Nguyễn Văn Huyên; kinh tế, xã hội với Nghiêm Xuân Yên, Vũ Văn Cẩn, Đỗ Đức Dục; văn học và giáo dục với Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân, Vũ Đình Hòe, Diệu Anh.

Vũ Đình Hòe nêu ra việc xây dựng giáo dục Việt Nam mới, vấn đề đào tạo thanh niên. Vũ Văn Hiền viết về Địa Vị và Tương Lai Nước Ta, Phan Anh luận về Hiến Pháp và Các Chính Thể. Các tác gia khác bàn về việc cai trị ở thôn quê, chấn hưng nông nghiệp, địa vị của tiểu công nghệ trong nền kinh tế tương lai, vấn đề giao thông ở xứ ta, v.v.. Tất cả những bài tiểu luận đều nhằm sửa soạn tương lai cho một nước Việt Nam độc lập.

Tri Tân

Ra đời vào tháng 06, 1941 Tri Tân là tạp chí chuyên về biên khảo, chủ bút là Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm, chủ trương Ôn Cố Tri Tân. Lập trường của nhóm được công bố trong bài phi lộ số báo đầu tiên như sau:

Ôn cũ biết mới. Nhằm mục đích ấy Tri Tân đi riêng vào con đường văn hóa với cặp kính khảo cứu. Tri Tân lần giở từng trang lịch sử. Bằng con mắt nhận chân và lạc quan, Tri Tân đứng vào hàng ngũ công binh xây dựng lâu đài văn hóa Việt Nam”.

Các tác gia nòng cốt đa phần đều có căn bản Nho học vững vàng gồm Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Nhật Nham, Khuông Việt, Nguyễn Đôn Phục, Dương Bá Trạc, Chu Thiên Hoàng Minh Giám, Trúc Khê Lê Văn Triện, Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng, Phan Khắc Khoan, Minh Tuyền, Lê Thanh, Nguyễn Huy Tưởng, Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí. Họ tìm hiểu, xây dựng lại những giá trị tinh thần cũ làm căn bản trong tương lai “cái gia tài của ông cha ta mấy ngàn năm vắt bao óc, mòn bao tim, trải bao cơn dâu bể để lại đến giờ há nỡ quẳng đi cho thêm nghèo kho trí thức?”. (Hoa Bằng, Thử Viết Văn Học Sử).

Những bài nghiên cứu về sử của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố bàn về quốc hiệu, công cuộc trị nước sau khi giành được độc lập v.v. mang những giá trị thiết thực cho việc thu hồi đất nước sau này.

Hàn Thuyên

Trương Tửu là người sáng lập, Nguyễn Xuân Tái đứng tên cơ sở hoạt động, Nguyễn Đức Quỳnh chủ biên với sự cộng tác của Phạm Ngọc Khuê, Lê Văn Siêu, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Thái Mai, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Tuân, Đồ Phồn, Nguyễn Đình Lạp.

Năm 1939 thành lập nhà xuất bản Hàn Thuyên. Từ 1941 nhóm có cơ quan ngôn luận là loại sách Tân Văn. Từ 1944 thêm bán nguyệt san Văn Mới Nghị Luận, tuy gọi là báo nhưng mỗi kỳ xuất bản là một quyển sách khảo cứu, phê bình về vấn đề văn học, triết học, lịch sử, xã hội.

Nhóm bắt đầu hoạt động mạnh kể từ năm 1941. Họ muốn canh tân đất nước bằng cách “đi tìm một triết lý mới về nhân sinh có lợi ích thiết thực cho cuộc sống hiện tại của quốc dân Việt Nam” với nguyên tắc:

- Mở rộng con mắt mới nhìn sự kiện lịch sử cũ để nói lên những nhận định trào sôi máu hận của mình.

- Học lấy những tiến hóa cuối cùng của người, nhưng cũng phải nhìn rõ cảnh thế của mình khi tính chuyện áp dụng để đuổi theo các nước tiên tiến.

Trương Tửu lấy bút hiệu là Nguyễn Bách Khoa. Nguyễn Đức Quỳnh chủ biên của nhóm vốn bạn học cũ ở Hưng Yên với Cousseau, Giám Đốc Sở Kiểm Duyệt, úp mở nhận bút hiệu của mình là Nguyễn Bách Khoa để đánh lạc hướng kiểm duyệt.

Phương pháp nhận thức của các cây bút Hàn Thuyên là duy vật biện chứng. Không những ngôn ngữ trong tác phẩm, ngay tựa sách cũng mang màu sắc Cộng Sản. Nhãn quan chính trị bộc lộ trong tất cả các tác phẩm về lịch sử, kinh tế, chính trị của Hàn Thuyên cho thấy nhóm theo chủ thuyết Cộng Sản. Phạm Thế Ngũ nhận định lý thuyết nòng cốt của nhóm Hàn Thuyên là chủ nghĩa duy vật:

Sau ngày Cách Mạng Tháng 8 nhóm Hàn Thuyên tuy không ai tham chính (trừ Đặng Thái Mai) nhưng tư tưởng của họ khác nào gặp cơn thời vũ bành trướng khắp nơi, ở giới biên khảo, giới sáng tác, ngay cả ở học đường, trong sách và văn giáo khoa. Đối với những người quốc gia Việt Nam sau này, trung thành với những nền nếp dân tộc, việc được mùa Mác Xít trên thật là điều đáng tiếc. Ngay trước 1945, trên báo Tri Tân, cụ Nguyễn Văn Tố phê bình những sách Hàn Thuyên đã có lần hạ bốn chữ thống thiết “tai lê, họa táo!”, lê và táo là những gỗ để khắc bản in ngày xưa. Ý nói tư tưởng biện bạch gây tai vạ đến cho cây gỗ táo, gỗ lê bởi người ta mượn chúng để truyền bá sai lầm và độc hại” (Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên quyển 3, trang 628).

Ngoài các tác gia Cộng Sản, những cây viết khác của nhóm Hàn Thuyên có thể vì nhiệt tình trong lúc hăng say đi tìm tư tưởng cứu nước trước ngã ba lịch sử của quốc gia đã sử dụng đường lối khuynh tả mà họ thực tâm tin tưởng sẽ có ích lợi thiết thực cho đất nước ngày mai. Tuy nhiên, vì chọn lầm chủ thuyết ngoại lai phi dân tộc, họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.

Chính tư tưởng Cộng Sản độc hại mà nhóm Hàn Thuyên cổ võ, truyền bá khiến cho nhiều thanh niên trí thức có cảm tình đi theo Việt Minh, tiếp tay giúp Cộng Sản thảnh công. Việc lầm đường của nhóm Hàn Thuyên đóng góp một phần không nhỏ vào thảm họa dân tộc. Thiết tưởng, những người cầm bút, các nhà tư tưởng, trí thức cần lưu tâm tránh lập lại bài học lịch sử đau thương mai hậu cho dân tộc.

***

Sau khi dùng bạo lực cưỡng chiếm Miền Nam, Cộng Sản thực hiện cấp thời, quy mô chính sách tiêu diệt toàn bộ văn hóa phẩm Việt Nam Cộng Hòa. Khoảng hơn 180.000.000 quyển sách đủ loại bị tịch thu, thiêu hủy.

Tử 1954, dưới chế độ Cộng Sản, các sách xuất bản tại miền Bắc bị kiểm duyệt khắt khe. Tất cả các sách thuộc mọi lãnh vực đều phải viết theo quan điểm duy vật biện chứng nhằm phục vụ cho mục tiêu chính trị đưa đến sự hủy diệt nền văn hóa nhân bản dân tộc. Sau ngày 30 tháng 04, 1975 các sách xuất bản trên toàn cõi Việt Nam cũng theo chiều hướng đó.

Sách này được soạn thảo với mục đích bảo tồn sự trung thực của lịch sử văn học Việt Nam.

Trần Bích San

***

.

Giới thiệu sách Văn Học Việt Nam của Trần Bích San

Chúng ta đã có nhiều công trình biên khảo về nền văn học dân tộc của Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản, Phạm Thế Ngũ, Hà Như Chi, Phạm Văn Diêu, v.v… Đó là chỉ nói về Miền Nam, dưới chế độ quốc gia. Ở Miền Bắc cũng có nhiều tuyển tập văn học sử, phần lớn do một tập thể biên soạn.

Các tác giả sáng tác theo tinh thần quốc gia chỉ nhắm mục đích là cung cấp cho giới đọc sách một cái nhìn tổng quát về văn học sử Việt Nam. Đến lượt mình, Trần Bích San nêu rõ tâm nguyện khi chấp bút nơi trang 25 sách Văn học Việt Nam:Sách này được soạn thảo với mục đích bảo tồn sự trung thực của lịch sử văn học Việt Nam”. Như vậy, khác hẳn các nhà nghiên cứu văn học sử tiền bối, Trần Bích San không những là một người biên khảo văn học mà còn là một người lính chống cộng.

*

Tác phẩm Văn học Việt Nam phát hành cuối năm 2018, dày 1200 trang, in chữ cỡ lớn, do Nhà Xuất bản Cỏ Thơm ấn loát và tác giả cùng thân nhân phát hành.

Sách gồm 31 chương, bắt đầu với Chương 1 Nguồn gốc Văn học Việt Nam rồi qua các Chương 2 Chữ Việt Thượng Cổ, 3 Chữ Hán Chữ Nho, 4 Chữ Nôm, 5 Chữ Quốc Ngữ; kế tiếp là các Chương 6 Giáo Dục Nho Học, 7 Giáo Dục Pháp Thuộc, 8 Giáo Dục Quốc Gia, 9 Giáo Dục Cộng Sản, rồi đến các Chương 10 về Nho Giáo, 11 Quan Niệm Quân Tử - Đại Trượng Phu, 12 Mẫu Người Kẻ Sĩ, 13 Danh Vị Tam Nguyên, 14 Học Vị Phó Bảng. Từ Chương 15 Văn Khảo Khái Luận qua các Chương 16 Phương Pháp Biên Soạn Văn Học Sử, 17 Sai Lầm, Nghi Vấn Trong Văn Học Sử, 18 Trở Ngại Biên Khảo Nho Nôm, sách trình bày cung cách và tầm nhìn văn học sử cùng với những vấn đề tồn nghi. Lịch sử văn học dân tộc được ký thác trong các Chương 19 Trương Vĩnh Ký, 20 Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí, 21 Tự Lực Văn Đoàn, 22 Các Nhà Văn Nữ Chữ Việt, 23 Trào Lưu Văn Chương Lãng Mạn, 24 Khuynh Hướng Trào Phúng, 25 Thơ Văn Yêu Nước, 26 Thi Ca Dục Ái. Phần cuối gồm những Chương 27 Câu Đối, 28 Phê Bình Văn Học, 29 Truyện Ngắn, 30 Phóng Sự - Tuỳ Bút và 31 Ca Dao. Sách chấm dứt với ba Phụ Lục: Các Nhà Văn Nữ Chữ Quốc Ngữ, Mục Lục Tác Giả, Nhân Vật và Tiểu Sử Tác Giả.

Sáng tạo

Chương 2 Chữ Việt thời Thượng cổ là một chương mới, các sách viết về văn học sử dân tộc trước kia không có. Chương này trình bày các luận cứ nhằm chứng minh là người Việt có văn tự riêng từ đời thượng cổ căn cứ vào các di tích khảo cổ học. Sách còn giới thiệu cả bài hịch của Hai Bà Trưng viết theo tự dạng tiếng Việt thời cổ đại.

Các chương dành riêng cho hai vấn đề Danh vị Tam nguyên và Học vị Phó bảng là những chương chỉ giáo quí báu và khoa học, chúng được trình bày một cách có hệ thống về hai học vị thời phong kiến kèm theo danh tính và tiểu sử các vị tam nguyên (Lê Quý Đôn, Trần Bích San, Nguyễn Khuyến, Vũ Phạm Hàm cùng với giai thoại văn học) và một số vị phó bảng (như Nguyễn Văn Siêu, Hoàng Diệu, Kiều Oánh Mậu, Phan Chu Trinh v.v..).

Riêng đối với Kiều Oánh Mậu, sách Văn học Việt Nam chỉ ghi nhận Ông là tác giả Bản triều Bạn nghịch Liệt truyện. Thực ra Kiều Oánh Mậu còn là một nhân vật văn học sử rất quan tâm đến nền văn học chữ Nôm nên đã diễn nôm các truyện Tỳ bà, Hương sơn Quan thế âm. Đáng nói hơn nữa, Kiều Oánh Mậu đã tiến hành chú thích rất công phu Truyện Kiều của Nguyễn Du, phân biệt rõ ràng các bản phường, bản kinh và trả lại tên gọi chính thức Đoạn trường tân thanh cho Truyện Kiều.

Chương 17 Sai lầm, Nghi vấn trong Văn học sử có thể được xem như một bản tập đại thành về những vấn đề còn tồn nghi liên quan đến thành phần chính thức của Tự lực Văn đoàn, đến năm sinh năm mất của một số nhân vật, đến hành trạng tiểu sử của một vài khuôn mặt, đến tác giả đích thực của một số tác phẩm văn học v.v…

Ca dao đã được đề cập đến ở Chương 1 nhưng Chương cuối, Chương 31 lại cũng mang tên Ca dao. Đúng ra nó phải mang tên “Ca dao Lịch sử” vì Chương này trình bày ca dao thời Nguyễn triều và nhất là ca dao thời hiện đại, ca dao đả kích chế độ cộng sản, gồm từ trang 997 đến trang 1023 với những tiểu mục Sau tháng Tư đen, Đổi tiền, Học tập cải tạo, Hợp tác xã, Đi kinh tế mới, Đào kinh, Phí phạm công quỹ, Vượt biên, Vượt biển, Cuộc chiến biên giới Việt - Trung năm 1979, Việt kiều, Khối Cộng sản tan rã, Đổi mới, Chế độ, Dân biểu nghị gật, Lãnh tụ, Cán bộ cao cấp, Đường lối cai trị, Tham nhũng thối nát, Phẩm chất Việt xuống thấp, Bán nước.

Kèm theo những phần do chính tác giả phụ trách viết, có những phần gọi chung là “Bài đọc thêm”, những phần này góp công vào việc giải thích chi tiết hơn, chu đáo hơn, cụ thể hơn những điều đã được ký thác trong văn bản chính.

Thiếu sót

Có những chi tiết tác giả chưa biết để nêu ra trong thành quả trí tuệ của mình.

Không những chỉ có Nam Phong được chuyển toàn bộ vào sáu dĩa DVD (tr. 644) mà Bách Khoa cũng được tàng trữ nguyên vẹn tại Thư viện Quốc gia của Quốc Hội Hoa Kỳ và thư viện Đại học Yale; mới đây tạp chí này còn được Diễn đàn Thế kỷ bên Mỹ số hoá toàn bộ và 426 số báo đã được điện tử hoá, qua công trình của nhà nghiên cứu văn học Phạm Phú Minh.

Trần Thanh Mại đã tìm ra khuê danh của Bà Huyện Thanh Quan là Nguyễn thị Hinh. Chữ “hinh” viết với bộ “hương” trong chữ Hán nghĩa là mùi thơm lan toả mạnh và xa, như nói hinh hương đảo chúc nghĩa là đốt hương cầu khấn; thuỳ hinh thiên tự nghĩa là để lại tiếng thơm ngàn năm. Khi Hiệp khách hành của Kim Dung sắp chấm dứt, người đọc có dịp làm quen với nhân vật nữ tên họ là Mai Văn Hinh, Văn Hinh có thể chuyển sang Anh ngữ thành literary perfume, một cái tên thực đẹp.

Trong tác phẩm của mình, Tác giả Trần Bích San chỉ có thể trình bày những kiến giải tưởng chừng đã ổn định nhưng thực ra không phải hoàn toàn chính xác.

Ví dụ, đối với Kinh Dịch, tác giả chấp nhận là đã được “Khổng Tử giải nghĩa” (tr. 290). Đó là một phần nội dung thuyết tác dịch tam thánh của Trịnh Huyền đời Đông Hán, theo thuyết này, truyền thuyết cho rằng Phục Hy chế ra quẻ, Chu Văn Vương viết Quái từ và Khổng Tử viết Thập dực. Tuy nhiên theo khảo chứng của các tác giả gần đây, thuyết này không đáng tin vì Phục Hy là một nhân vật hư cấu, huyền thoại, không có thật; vả lại Kinh Dịch không phải là tác phẩm do một nhân vật viết trong một thời đại. Chu Dịch đã được nhiều tác giả chuyển sang Việt ngữ, như Phan Bội Châu, Ngô Tất Tố, v.v…

Nơi trang 125, tác giả cho rằng Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận soạn có 9.353 chữ. Sự thực lịch sử phức tạp hơn. Hứa Thận căn cứ vào kinh điển cổ văn cùng các sách Sử lựu thiên Thương Hiệt thiên để biên soạn thành bộ tự điển Thuyết Văn Giải Tự vào năm Kiến Quang nguyên niên đời Hán An đế (121). Công trình trước tác đòi hỏi 23 năm. Nguyên bản sách này đã bị tàn khuyết, triều Nam Đường thời Ngũ Đại, Từ Huyền hiệu đính xác định văn bản thu chép được 10.516 chữ, trong đó có 1.163 chữ trùng lắp, còn lại 9.353 chữ. Năm 1963 sách được Trung Hoa Thư cục xuất bản. Trong lịch sử qua các triều đại, các bản chú thích Thuyết văn Giải tự có rất nhiều, ảnh hưởng lớn nhất là Thuyết văn Giải tự chú của Đoàn Ngọc Tài đời Thanh do Thượng Hải Cổ tịch Xuất bản xã phát hành năm 1981.

Chế độ quốc gia vốn quan tâm rất lớn đến kho tàng văn học chữ Hán nên đã có nhiều cống hiến rất đáng biểu dương và trân trọng như thành lập Uỷ ban Dịch thuật thuộc Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hoá với người đứng đầu cơ quan là Mai Thọ Truyền, kế đó lại thành lập Trung Tâm Học Liệu với trụ sở ở đường Trần Bình Trọng. Ngoài ra còn có những tổ chức dịch thuật từ Hán sang Việt khác như Uỷ ban Phiên dịch của Viện Khảo cổ Sài Gòn, Uỷ ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam của Viện Đại học Huế, Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hoá Á châu, v.v…

Riêng Uỷ ban Dịch thuật của Phủ Quốc vụ khanh qui tụ nhiều ban, ngoài ban Hán, ban Nôm còn có các ban Trung Hoa học, Anh, Pháp, Nhật, Đức, v.v… Mỗi ban lại chia ra nhiều tổ chuyên môn như ban Hán văn có các tổ Sử, tổ Địa, tổ Triết. Đội ngũ dịch giả khá đông đảo, dễ đến hơn trăm người, nhiều người có danh vọng và uy tín như Đoàn Trung Còn, Lê Xuân Giáo, Lê Mạnh Liêu, Hoàng Khôi, Lê Xuân Mai, Tạ Quang Phát. Những dịch phẩm đã hoàn tất bao trùm các lĩnh vực văn, sử, triết, luật, địa, kinh... Xin liệt kê vài tác phẩm đáng để ý vì có giá trị đặc biệt về văn học lịch sử, do từng cá nhân hoặc do Phủ Quốc vụ khanh phụ trách dịch thuật, ấn loát và phát hành:

Quốc triều Hình luật do Cao Nãi Quang dịch, xuất bản năm 1956;
An Nam Chí lược, do Uỷ ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam Viện Đại học Huế xuất bản năm 1961;
Ô Châu Cận lục do Bùi Lương dịch, xuất bản năm 1961;
Sử ký Tư Mã Thiên, Nhượng Tống dịch, xuất bản năm 1964;
Ức Trai tập, Hoàng Khôi dịch, xuất bản năm 1972 v.v…

Ngoài ra Công dư Tiệp ký của Vũ Phương Đề, Vân đài loại ngữ, Kiến văn Tiểu lục của Lê Quí Đôn, Lịch triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, v.v., cùng với Tứ thư Ngũ kinh của Nho giáo cũng được Trung tâm Học liệu tổ chức dịch thuật và ấn loát, phát hành trong khi Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị in tại Nhà in Tương Lai, đường Võ Tánh, Sàigòn cũng được đích thân Bộ Văn hoá Giáo dục và Thanh niên tái bản năm 1973 với phần chữ Nôm in rất mỹ thuật.

Các tài liệu tham khảo này in và đóng thành sách với trang giấy cỡ lớn, văn bản ít lỗi ấn loát và nhất là với ưu điểm nổi bật mà chỉ có sách dịch dưới chế độ quốc gia mới làm được, đó là việc in nguyên văn chữ Hán chữ Nôm kèm theo ở phần sau hoặc xen kẽ với phần dịch. Công việc in nguyên văn Hán tự không những giúp phổ biến rộng rãi các tác phẩm cổ mà các nguyên bản chữ Hán đính kèm dịch phẩm còn có tác dụng giúp người đọc có phương tiện và cơ hội thẩm tra lại những chỗ còn nghi vấn khi cần thiết hoặc cung cấp thêm tài liệu cho giới nghiên cứu tiến hành khảo dị.

Bổ túc

Chúng tôi trộm nghĩ sách Văn học Việt Nam cần được bổ túc bằng một chương riêng liên quan đến thi loại từ trong văn học Việt Nam.

Tất cả các tài liệu văn học sử Việt Nam từ trước đến nay không có tài liệu nào trình bày về thi loại từ. Trường Đại học Văn khoa Hà Nội trước 1954 và Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 1975, cả hai trường đều không có một giờ nào giảng về từ cho sinh viên. Thậm chí Giáo sư Văn khoa Trần Trọng San còn cho rằng “trong văn học Việt - Hán chỉ có độc nhất một bài từ: bài này làm theo điệu Vương lang qui do Đại sư Ngô Chân Lưu tặng sứ thần nhà Tống Lý Giác ở thời Lê Đại Hành (năm 907); trong văn chương chữ Nôm chỉ có mấy bài từ làm theo điệu Tây giang nguyệt trong truyện Sơ kính tân trang của Phạm Thái ở đời Hậu Lê”. Đến lượt mình, tác giả Trần Bích San chỉ có một lần duy nhất đan cử thể từ nơi trang 183 một cách ngắn ngủi, nguyên văn: “các bài từ của Phạm Thái”.

Từ là một thể loại thi ca cổ điển của Trung Hoa. Từ manh nha thời Nam triều, trưởng thành vào đời Đường, thịnh hành ở thời Tống. Từ sản sinh sớm nhất trong dân gian, gốc gác của nó vốn là chốn thanh lâu và các chuyên viên trình diễn từ đầu tiên là giới kỹ nữ. Từ là tổng hoà thi và nhạc bởi vì mỗi bài từ đều được viết theo một nhạc phổ mà thuật ngữ chuyên môn gọi là từ phổ và công việc đặt lời ca cho từ phổ được gọi là điền từ.

Bài ca của Đại sư Ngô Chân Lưu sáng tác để tống tiễn sứ thần Lý Giác thực ra làm theo điệu Nguyễn lang qui chứ không phải Vương lang qui. Nhà Trần tiếp sứ Nguyên là Trần Phu đã cho cử nhạc gồm các điệu Trang Chu mộng điệp, Bạch Lạc Thiên, Mẫu biệt tử, Vi sinh, Ngọc tiêu, Đạp ca, Thanh ca, Giáng chân long, Nhập Hoàng đô, Yến giao trìNhất thanh phong. Đó là những khúc hát đã được Lê Quí Đôn ghi lại trong Kiến văn Tiểu lục, dựa theo Giao châu Thi tập của Trần Cương Trung; rất có thể đây là những điệu từ. Điệu Đạp ca chẳng hạn có lẽ là điệu Đạp ca từ. Bài từ cuối cùng là của Tản Đà, đó là bài Tống biệt viết vào năm 1917 theo điệu Hoa phong lạc.

Giữa hai thời điểm 907 và 1917 - hơn mười thế kỷ - thỉnh thoảng cũng có tác giả vận dụng thể từ. Về phái nữ có Liễu Hạnh tiên chúa với những bài theo các điệu Bộ bộ thiềm, Xuân quang hảo, Cách phố liên, Nhất tiễn mai; Trương Quỳnh Thư trong Sơ kính tân trang với hai điệu Tây giang nguyệtNhất tiễn mai; Hồ Xuân Hương với điệu Xuân đình lan.

Về nam giới có thể kể chúa Trịnh Cương với điệu Kiều dương cách; Ngô Thì Sĩ với điệu Tô mộ già; Tùng Thiện Vương với rất nhiều điệu tập hợp trong từ tập Cổ duệ từ như Hoãn khê sa, Thanh bình lạc, Dương châu mạn, Mô ngư nhi, Giải bội lệnh, Lưỡng đồng tâm, Kim nhân bổng ngọc bàn, Pháp khúc hiến tiên âm; Đào Tấn với gần hai mươi điệu trong Mộng mai từ tập: Mãn giang hồng, Bồ tát man, Nhất lạc sách, Ngư phủ từ, Lâm giang tiên, Trường tương tư, Giá cô thiên, Ức Vương tôn, Ức Giang nam, Hậu đình hoa, Ỷ la hương, Ngu mỹ nhân, Tiểu trùng sơn, Như mộng lệnh, Điệp luyến hoa, Chuyển ứng khúc, Bốc toán tử, v.v.. Thi hào Nguyễn Du cũng có ít nhất một bài theo điệu Hành lạc từ và mười lăm bài theo điệu Trúc chi từ (mà tác giả Truyện Kiều gọi là Trúc chi ca). Ngoài ra các nhân vật hư cấu truyện Nôm như Vương Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Tô Hữu Bạch trong Ngọc Kiều Lê tân truyện của Lý Văn Phức cũng đều có điền từ.

Phần “Bài Đọc Thêm” của Chương này sẽ giới thiệu vài ba bài từ kinh điển, quen thuộc chữ Hán của các tác giả Trung Hoa nổi tiếng bên cạnh các bài từ cùng điệu bằng chữ Hán hay chữ Nôm của nam nữ từ gia Việt Nam.

*

Khoa văn học sử có nhiệm vụ nghiên cứu các hiện tượng văn học, các phong trào văn học, các tác giả văn học. Văn học sử tìm hiểu quá trình phát triển của nền văn học dân tộc, khám phá những qui luật nội tại của văn học giúp áp dụng những qui luật ấy vào công việc phê bình và đính chính văn học. Văn học sử cố gắng giải thích những điều kiện lịch sử trong đó nền văn học dân tộc đã hình thành và tồn tại. Văn học của một dân tộc có những đặc điểm không giống với văn học của các dân tộc khác và nhiệm vụ của văn học sử là nghiên cứu những đặc điểm liên hệ; ví dụ một đặc điểm của nền văn học Việt Nam là sự phát triển song song của nền văn học viết bằng chữ Hán và nền văn học viết bằng chữ Nôm trong khung thời gian dài nhiều thế kỷ, hoặc một đặc điểm khác là sự chống đối mãnh liệt giữa hai nền văn học tạm gọi nôm na là văn học Việt quốc và văn học Việt cộng.

Ra đời trong bối cảnh lưu vong, Văn học Việt Nam của Trần Bích San đáp ứng được phần lớn nhiệm vụ mà văn học sử đã uỷ thác cho nó. Nó là một trân phẩm hiện đại, khoa học, nhân bản, khai phóng; nó đáng được xem là của gia bảo đối với những ai còn nặng lòng với tiếng Việt chữ Việt.

.

Trần Văn Tích
Bonn, CHLB Đức, 09.01.2019


Cái Đình - 2019