Trần Đĩnh


 

Lời mở đầu Đèn Cù II

Có thể ĐÈN CÙ sẽ không hấp dẫn những độc giả khác như tôi bởi các nhân vật trong cuốn sách hoàn toàn xa lạ với họ hoặc vì họ không quan tâm đến chính trị. Nhưng với tôi, người coi việc chổng Cộng sản Việt Nam như ý nghĩa chính của cuộc đòi mình thì cuốn sách này vô cùng bổ ích. Thêm nữa, khá nhiều nhân vật xuất hiện trong đó đã có những lần gặp gỡ với tôi. Đọc ĐÈN CÙ là dịp gặp lại họ, cả người đã khuất núi lẫn những ai đang tồn tại. Một đoạn đường lịch sử của Việt nam được phản ánh qua các trang viết. Đọc, để thêm một lần nữa, khẳng định rằng con đường đấu tranh cho dân chủ là con đường duy nhất có thể thay đổi vận mạng của dân tộc, và con đường ấy phải đi qua nấm mồ chôn chủ nghĩa cộng sản cùng các di sản thối rữa cùa nó.

Dương Thu Hương, tác giả Thiên Đường Mù

Trần Đĩnh là một trong rất ít nhân chứng còn lại có thẩm quyền nhất để kể những câu chuyện này. Nhưng Đèn Cù là một cuốn tự truyện, giá trị ưu tiên của nó không phải là tư liệu mà là sự chia sẻ những trải nghiệm lịch sử hết sức con người.

Huy Đức, tác giả Bên Thắng Cuộc

Trần Đĩnh là nhà văn cung đình, như ông tự nhận. Nhưng nhờ có ông, người may mắn được “gần mặt trời” trong lịch sử Việt Nam cận đại nên mới thấy được những vết đen trên bề mặt nó, nay hào phóng kể lại cho bàn dân thiên hạ được biết trong đống rác cung đình nọ có cái gì. Dưới dạng đặc biệt của thể loại ký mà ông gọi là “truyện tôi” người đọc sẽ được biết nhiều sự kiện, đôi khi là động trời, với những con người, đôi khi được coi là thánh và á thánh, có hình thù ra sao. Tác giả dùng lối kể tếu táo của người chứng kiến, không cần đưa ra dữ liệu, ai tin thì tin, không tin thì thôi, mặc. Thế nhưng tác phẩm của ông lại rất đáp ứng nhu cầu của người đọc muốn biết những gì đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử không có lịch sử”.

Vũ Thư Hiên, tác giả Đêm Giữa Ban Ngày

Trung thu này không thấy con nít rước đèn cù mà chỉ thấy cư dân mạng rước sách “Đèn Cù” của Trần Đĩnh. Cụ Trần Đĩnh vốn Tây học, nên viết lách gãy gọn, linh hoạt và chính xác. Cụ viết từ gan ruột, hoàn toàn theo ý mình. Trước nay, những “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên, “Hoa xuyên tuyết” của Bùi Tín, “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương… mới chỉ tập trung vẽ chân dung một ông… Judas. Nay cụ Trần Đĩnh chơi tuốt luốt cả 13 ông… ông nào cũng Judas cả nên có thể nói cụ không chỉ lật đồ thần tượng mà cụ đã đốt đền, giống Herostratos ngày xưa đốt Artemis. Tất nhiên, cụ Trần Đĩnh “đốt đền” không vì háo danh như Herostratos mà vì ở “trong chăn” cụ biết quá nhiều sự thật về “ngôi đền cộng sản Việt Nam”, và tinh thần “sĩ phu Bắc Hà” thục ép cụ phải nói ra. Đám cháy này nhờ ngọn gió internet nên nó bốc đùng đùng, cháy lan khắp nơi tới cả “khu mật viện” của mấy bác Ba Đình. Không biết cỏ phải gỡ chút sĩ diện mà các bác (Ba Đình) dại dột cho triển lâm Cải cách ruộng đất không? Nhưng rõ ràng gậy ông lại đập lưng ông.

Nhật Tuấn, tác giả Đi Vê Nơi Hoang Dã.

Đế “trục độc” những ai muổn hiểu ra cái ác lại đầu nguồn của đảng cộng sản Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới sau này thì nên đọc - và đọc kỹ - bộ “Đèn Cù” của Trần Đĩnh. Những ai muốn thế giới nhìn ra sự lầm lạc của nhiều người về Việt Nam thì nên phiên dịch bộ sách ra ngoại ngữ, vì nội dung còn vượt xa những gì Boris Souvarine đã viết về chế độ Stalin tại Liên Xô.

Nguyễn Xuân Nghĩa, Chuyên gia Kinh tế.

Với một bút pháp linh động và riêng biệt, Trần Đĩnh kể từng mẩu chuyện của riêng mình suốt cuốn “Đèn cù”. Từng mảng nối tiếp nhau hồn nhiên không theo một bố cục trước. Nhưng khi nhìn toàn bộ cuốn sách thì những mảng ấy kết thành một bức tranh vĩ đại mô tả chính xác và nghệ thuật cảnh vật của chiếc đèn kéo quân ngót 70 năm qua trên đất nước Việt Nam: Một bức tranh cực tả bản chất của đảng Cộng sản với các đặc tính bất biến Dối trá, Bạo lực và Vô nhân.

Phạm Xuân Đài, Chủ bút Thể Kỷ 21 Online.

Ngòi bút Trần Đĩnh với khẩu ngữ sắc mạnh, chấm phá, khoan đục vào xã hội một thời để bật ra cái đồi bại chen lẫn cái cao quí nhất của con người. Hãy khoan lục bới những giai thoại “chống cộng” trong tác phẩm, mà hãy mở lòng ra quằn quại với nỗi đớn đau trên từng trang giấy của tác giả và của dân tộc. Chúng ta thường than vãn về sự thiếu vắng môt tác phẩm lớn cho một giai đoạn lớn, nhưng thực ra, chúng ta đã có sẵn tâm và tâm để nhận ra sự xuất hiện của nó hay chưa?

Phan Quốc Tâm, Tiến sĩ Tâm lý

“Đèn Cù” không chỉ là quyển sách nên đọc, mà là quyển sách cần phải đọc. Trở ngại duy nhất khi cầm quyển sách cần đọc này là nếu đã giở trang đầu, phải đọc một mạch cho đến trang cuối cùng mới buông ra được.

Nguyễn Văn Khanh, Giám đốc ban Việt ngữ RFA

Ngoài giá trị lịch sừ, giá trị chính trị và nhất ỉà giá trị văn học, điều làm cho cuốn sách vượt trên tất cả chính là mỗi câu chuyện, mỗi giai đoạn, mỗi sự kiện đều được tác giả viết lại bằng tấm lòng. Dưới tàn bạo và đàn áp, nhân cách con người nhất thời có thể bị chà đạp, vấy bẩn, nhưng tấm lòng tử tế còn ở lại khiến những trang sách quay vòng của Đèn Cù gây xúc động và hy vọng.

Hòa Bình Lê, nhà báo, California.

Nhận xét tinh tế, chi tiết, bút pháp chắc nịch và đậm ngôn ngữ điện ảnh, Đèn Cù soi rọi cận cảnh mọi khuôn mặt chính trị, văn hóa, văn nghệ, một thời thao túng xã hội Việt Nam mà di hại đến nay vẫn còn mồn một. Đèn Cù là tự truyện chính trị khắc họa rõ nét một xã hội lệch trong hành xử và bệnh trong tư cách - hệ quả của thứ văn hóa cộng sản bắt nguồn từ thượng tầng. Một tác phẩm cực kỳ quan trọng để tìm hiểu “số phận Việt Nam”. Với độc giả: Đừng chờ đợi sẽ có thêm một Đèn Cù thứ hai.

Phạm Phú Thiện Giao - Chủ bút Nhật báo Người Việt California.

Với lối hành văn khắc họa tài tình, Đèn Cù là sự diễn đạt ý tường bằng ảo thuật đậm thẫn thái của thư pháp gia. Dứt khoát, đứt đoạn, tùy ý, dửng dưng… cốt để phác họa một giai đoạn mông muội máu lửa. Ánh sáng của “Đèn Cù” cứ lênh loang soi tận vào những góc tăm tối nhất của cái bệ thờ được Trung Quốc dàn dựng nhằm nhát ma dân tộc Việt Nam mấy chục năm qua. Có thể nói, “Đèn Cù” là tư liệu lịch sử được viết bằng thứ văn chương nghệ thuật mang tính độc nhất vô nhị để hoàn thành sứ mệnh làm nhân chứng mà trên mình đang còn mang đầy thương tích.

Trân Đông Đức, Chủ nhiệm Tuân báo Người Việt Đông Bắc Mỹ

Đèn Cù với tôi như một cuốn Sử văn chương với ngồn ngộn chi tiết, thú vị như đọc Tư Mã Thiên phần Liệt truyện vậy. Dù có những tranh cãi về tính xác thực của nó, nhưng có điều chắc chắn rằng dù tin hay không vào Đèn Cù người ta cũng phải nhìn lại về một lớp người đã ảnh hưởng vô cùng to lớn đến lịch sử cận đại Việt Nam.

Ngô Nhật Đăng, blogger Việt Nam

Đèn Cù vạch ra rất rõ những xung đột về tư tưởng chính trị và những tranh chấp quyền lợi nhơ nhớp trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam. Cùng một lúc, Đèn Cù cũng cho ta thấy “…một dẻo thung lũng rất êm ả, hết sức êm ả… đã chìm vào bóng chiều xẫm lại…” trước đêm đánh vào Đông Khê. Và từ đó, Trần Đĩnh đã cho ta thấy sự phi lý cũa chiến tranh từ cặp mắt cũa những người mẹ đã mất con từ phía bên kia. Đèn Cù hiếm hoi là vì những mẩu chuyện đầy ắp tình người như vậy.

Vũ Minh Hải, khoa học gia chuyên nghiên cứu bệnh ung thư.

***

“ĐÈN CÙ” MỘT NỖ LỰC “TRỤC ĐỘC”

Giới thiệu của Nguyễn Xuân Nghĩa

Vế “trục độc”, ai muôn hiểu ra cái ác tại đầu nguồn của đảng Cộng sản Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới mãi sau này, thì nên đọc - và đọc kỹ - bộ Đèn Cù của Trần Đĩnh.

Trong cả ngàn cuốn sách mà người Việt Nam và ngoại quốc đã viết về hiện tượng Cộng sản tại Việt Nam, cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh có một vị trí riêng. Đó là sách thuộc loại bán chạy trong năm dù ở trong nước còn là bán chui và bị tịch thu. Mãi sau này, Đèn Cù sẽ là tài liệu tham chiếu của rất nhiều người. Đọc hết quyển I cuốn Đèn Cù, mỗi độc giả lại có một cách thẩm định. Chỉ riêng phân ứng “không thế đọc chơi rồi bỏ” của nhiều độc giả cũng đủ nói lên giá trị đặc biệt của tác phẩm. Chẳng những vậy, đọc rồi, không ít người đã viết ra và lưu truyền nhận xét của mình.

Trong số này, một số độc giả còn may mắn… hài tội tác giả để nói về sự khôn ngoan tinh tế của họ. Nhẹ là “sao giờ này mới viết cái chuyện ai cũng biết?”. Nặng hơn thì “có ý chạy tội cho Hồ Chí Minh”. Thậm chí còn chạy tội cho Trung Cộng. Hoặc cuốn sách ra đời trong một âm mưu mờ ám để cho thấy là so với các lãnh tụ cộng sản Việt Nam ở đâu nguồn thì thế hệ ngày nay đã đổi mới, v.v…

Đôi ba người tinh quái lại xoáy vào nội tâm tác giả - hay của chính mình. Họ nói đến phản ứng tình dục lồng trong chính trị. Biết đâu chừng, bản năng thâm sâu ấy khiến một người bị kết tội “chống đảng” như Trần Đĩnh lại chỉ đi cải tạo thay vì bị tù đầy như các “đội bạn” của nhóm “Nhân văn Giai phẩm”, hoặc các nhân vật lãnh tội “xét lại chống đảng” ngày xưa. Vẫn biết rằng khi đã xuất bản, tác phẩm hết còn là của tác giả, mọi người đều có quyền phán xét khen chê như vậy. Nhưng sự khen chê ấy cũng tùy trình độ - và cả giác độ - của người đọc. Được một cái là càng bị đây đó dị nghị thì cuốn sách lại bán càng chạy…

Thế rồi, do nhà xuất bản Người Việt ưu ái yêu cầu - có thể là với sự đồng ý của tác giả - người viết này may mắn được đọc bản thảo của quyển hai. “May mắn” cũng là một phán xét! Cái giá phải trả là viết đôi lời giới thiệu. Cung kính bất như tuân lệnh.

Giữa đám đông còn om xòm về quyển I, người viết xin chỉ vạch ra hai tội của Trần Đĩnh: một là mê văn hóa Trung Hoa, như nhiều người có học khác. Hai là mê lý tưởng cộng sản, ban đầu kết tinh vào Hồ Chí Minh hay Trường Chinh. Là người uyên bác - làm không ít độc giả hụt hơi khi đọc và phải đọc lại - Trần Đĩnh có biệt tài ngôn ngữ của một nhà văn lớn. Nhưng trước hết, ông hiển nhiên biết nhiều ý của chữ “mê”.

Ban đầu, ông chỉ là con mê, một loại nai, bị khớp đèn của các lãnh tụ trên rừng xanh khi họ chưa có dân trong tay để xiết. Trong tuổi thanh xuân ấy, mê có thể là thích, ai chẳng biết vậy? Những mê quá cũng làm ta mờ trí, chẳng mê tín thì mê thất ỉà lạc đường, đầu óc mụ mị. Trong cõi mê hoang mờ mịt ấy, người ta khó thấy được thực hư và có khi là đồng lõa của tội ác. Mê còn hàm ý mân mê sờ soạng - Lê Đức Thọ hiểu cảm giác này ở trong tù. Sợ quá thì mất luôn cảm giác, như tê mê, hoặc mê như bị chất ether trên giường bệnh. Hay bê bết dơ dáy như “chân minh đầy cứt mê mê”…

Đọc lại Đèn Cù I và đọc qua quyển II, chúng ta sẽ thấy ra ngần ấy nét mê!

Người viết này không nói quá mà vẽ rắn thêm chân. Ở chương 49 trong quyển II, chúng ta sẽ thấy ông luận bàn đầy tâm đắc với một người trong Nam, thuộc Việt Nam Cộng Hoà, về tiến trình phơi bày bản chất ô uế của đảng Cộng sản Việt Nam như “mở nắp bô”.

Việt cộng mải mê vùi cứt cho ông anh (là Trung Cộng) nên không dọn được cứt mình ngập hết bản thân mình và… - Và đang được nhân dân bới ra, vâng, chính xác, dân đang mở nắp bô đấy”.

Mê như vậy từ khi còn trai trẻ, sau cùng thì Trần Đĩnh đã tĩnh dần sau nhiều lãn choáng váng. Mà không chỉ tình lẩy một mình. Từ hơn hai chục năm nay, ông muốn viết lại cả tiến trình giải thoát của bản thân và giải độc cho người khác. Nên người viết xin đề nghị một từ là “trục độc”.

Để “trục độc”, những ai muốn hiểu ra cái ác tại đầu nguồn của đảng Cộng sản Việt Nam, khởi đi từ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh cho tới mãi sau này, thì nên đọc - và đọc kỹ - bộ Đèn Cù của Trần Đĩnh.

Người sính văn chương có thể cất công xếp loại Đèn Cù là tự truyện hay hồi ký, bút ký, v.v… Qua quyển II, ta mới nhận ra nét chung là Trần Đĩnh nhớ gì kể nấy, như người viết tùy bút. Khổ nỗi, đây không là tùy bút của Mai Thảo hay Nguyễn Tuân để giải trí mà nhằm giải độc… ông lần giở ký ức như con tầm nhả tơ vì cái nghiệp, những sợi tơ rướm máu bạn bè và người thân, hoặc đầy mùi xú uế của đàng.

Nếu quyển 1 của Đèn Cù có những chương tập trung về các thủ phạm của cái ác, quyển II viết nhiều về các nạn nhân, trong đó có những người đáng kính trọng, ít ra là đáng được thông cảm. Trần Đĩnh kể lại thế giới của ông qua cà trăm giai thoại, với nhiều nhân vật còn xa lạ cho những ai không sinh hoạt trong môi trường hắc ám đó. Nhưng nếu cứ tưởng ông rút ruột viết ra từng đoạn rã rời thì người đọc vẫn chưa thấy được công phu trục độc.

“Sợi chỉ xuyên suốt” những đoạn tùy bút u ám vẫn là cái gian và cái ác của “Việt cộng”. Dùng từ này, Trần Đĩnh trả lại ngữ nghĩa nguyên thủy và chính xác là Cộng sàn Việt Nam. Y như khi ông viết về Trung Cộng.

Nhưng nếu chỉ là về từng nhân vật ngẫu hứng nhớ lại thì tùy bút Đèn Cù chưa đi tới tận cùng của trục độc - hay mở nắp bô để xả mùi xú uế.

Trần Đĩnh đọc nhiều, thuộc sử đảng và không hề quên mối quan hệ với Liên Xô cùng Trung Cộng từ thời Đệ tam Quốc tế cho đến ngày nay. Cho nên về từng người hay từng việc, ông đều nhắc lại dẫn chứng, nhất là trong báo đảng hay từ người trong cuộc.

Với nhiều độc giả thuộc thế hệ về sau, khung cảnh lịch sử ấy là một mê cung ngoắt ngoéo nên quyển II của Đèn Cù còn bắt người đọc phải nhớ tới hoặc đọc lại lịch sử cận đại. Trong từng mô tả về sự gian ác, đôi khi ông có cái lý “giảm khinh” là cái ngu của mấy kẻ trên chóp bu. Dù là ngu thì được cái gian bù lại. Xin đọc Trần Đĩnh kề lại về hậu trường của “Cách mạng Tháng Tám” năm 1945 ở Chương 50:

“Chỉ hai việc đầu não cách mạng Tân Trào mù tịt tin Hà Nội khởi nghĩa thành công và Việt Minh vũ trang phải được Nhật cho phép qua cầu Đuống mới vào được Hà Nội đã đủ cho thấy vận hội khách quan vô cùng tốt đẹp của đất nước. Nói lại: vận hội của toàn dân nhưng cuối cùng đã bị Việt cộng ẵm gọn làm vốn liếng riêng của mình. (Chữ in nghiêng là cùa tác giả Trần Đĩnh).

“Tân Trào ba ngày không biết Hà Nội đã khởi nghĩa thắng lợi và Quân Chiến Khu về phải xin Nhật cho qua cầu Đuống, chỉ hai việc ấy thôi đủ nói Việt Minh chả có đuối Nhật gì hết. Và tuy ngày 23 tháng 8 mới vào Hà Nội, Cụ Hồ vẫn cảnh giác bắt đi vòng qua sông Hồng ở mạn cây đa làng Sọi có Vũ Đình Huỳnh chờ đón Cụ lên xe hơi quacầu Sông Cái rồi rẽ phố Hàng Khoai và thế là Cụ đã được ngắm thủ đô ở cái góc mang tên thứ lương thực tiêu biểu nhất của dân ta - đúng là nông thôn bao vây thành thị… Rồi Cụ hài lòng ra ngay chỉ thị tiếp tục hòa hoãn với Nhật, tha Bảo Đại, một lần nữa mặc nhiên thừa nhận Quân lệnh sõ 1 yêu cầu tiến công Nhật, đàn áp chính quyền Trần Trọng Kim và tiêu diệt đảng phái phản động, là duy ý chí kiểu con ếch nằm trong đáy giểng. (Hết trích).

Từ những hồi tưởng đó, Trần Đĩnh mới kết luận là theo Việt cộng thì “bốn phương vô sản đều là anh em.. “vô tổ quổc” như thế!”

Đầy rẫy trong Đèn Cù, ta gặp nhiều chuyện cực khó tin mà chỉ người trong cuộc mới thấm được theo lối “nóng lạnh tự biết”. Trong mạch đó, độc giả có thể nhớ tới truyện giả tưởng “Đỉnh Cao Toang Hoác” (Yawning Heights hay Les Hauteurs Béantes) của nhà văn bất đồng chính kiến Alexander Zinoviev khi ông ta chơi chữ và châm biếm xã hội Xô viết. Nhưng Zinoviev còn phải dựng truyện giả tưởng, Trần Đĩnh viết về người thật, việc thật. Và xuyên qua hơn ngàn trang sách của hai quyển, Đèn Cù bổ dọc từ Marx tới Lenin, Staiine, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh, cho chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ - và cả Nguyễn Văn Linh với thành tích bái Tầu để chặn Duẩn và ngăn Thọ. Còn kinh hãi hơn giả tưởng.

Tuy nhiên, và đây mới là một kỳ thú của tác phẩm, Trần Đĩnh lại viết về Hồ Chí Minh như một nạn nhân hàng đầu. Những ai cho rằng Đèn Cù có dụng tâm chạy tội cho Hồ Chí Minh thì nên đọc quyển II để nắm lấy “tang vật”. Dù là cán bộ trước sau đã qua sáu năm đào tạo của Đệ tam Quốc tế, và sau nảy được quốc tế trao cho Trung Quốc dìu dắt, Hồ lần lượt là nạn nhân của Staline, rồi Mao và vì vậy mà từng có thòi ở nhà cũng là nạn nhân của Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ trong vụ tranh đoạt quyền bính nội bộ. Phần nào đó, Bác Hồ cùa Trần Đĩnh có thể là “vô can” trong nhiều chuyến động lớn chỉ vì cái tội vô tài. Vậy mà ngày nay Việt cộng còn nói mãi về thắng lợi của “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cho nên Trần Đĩnh mới phang thành tích họ Hồ: “Bịa! Chính là thất bại! Vâng, thất bại đầu tay lập đảng và thất bại đầu tay lập nước!”

Rất đáng ngạc nhiên từ một người mắc bệnh mê Hồ khi còn trẻ. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là Trần Đĩnh không hết lời ngợi ca cụ Trần Trọng Kim. Từ đó, thế hệ ngày này ở trong nước phải tìm hiểu xem Trần Trọng Kim là ai - và vì sao Cách mạng Tháng Tám chỉ là một trò bịp…

Quyển II của Đèn Cù được tác giả đặt tựa là “Vén Mây Giữa Trời”, đọc mãi người viết này mới đoán ra Trần Đĩnh có ý phân công lao động. Bác Hồ và đảng ta chỉ là những vì sao, còn lại, Mặt Trời là những lãnh tụ xa lạ của Liên Xô hay Trung Cộng, như Lenin, Staline hay Mao… Vén mây lên, Trần Đĩnh bắn rụng cả mặt trời lẫn ngần ấy vì sao…

Mà vì sao dân ta lại khổ vậy? Cũng vì cái tội mê…

Sau khi cả dân tộc đã trả giá đắt đỏ, Trần Đĩnh viết ra chuyện mê muội ấy. Những ai muốn thế giới nhìn ra sự lầm lạc của nhiều người ngoại quốc về Việt Nam thì nên phiên dịch Đèn Cù ra ngoại ngữ. Nó cần xuất hiện bên những tác phẩm giải ảo lừng danh của thiên hạ.

Nguyễn-Xuân Nghĩa
California, ngày 11-11-2014

Vén mây giữa trời tặng
bạn bè và Hồng Linh bị trừng trị

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Đèn Cù cuốn I của Trần Đĩnh xuất hiện giữa mùa Thu năm nay đã được chiếu cố và hoan nghênh từ nước ngoài về lại trong nước. Cuốn sách, với lối văn nói, trình bày nội dung phóng khoáng, rất người và rất thực, đã thu hút người đọc với vô số chuyện xảy ra mà tác giả là vai chính hay ít ra là nhân chứng. Chuyện “cung đình” cộng sản, điều mà ai trong chúng ta, tò mò hay không tò mò, cũng đều muốn biết. “Truyện tôi” của Trần Đĩnh kể lại với cái tôi của người viết, đương nhiên, và chỉ một; người viết này mới có cái tôi như thế… “Một lối kể tếu táo của người chứng kiến, không cần đưa ra dữ liệu, ai tin thì tin, không tin thì thôi…” như nhận xét của nhà văn Vũ Thư Hiên.

Trần Đĩnh cho biết từ ngày Đèn Cù I xuất hiện, cuộc sống (của ông) quả có gặp “khó khăn”. Các mối giao dịch xưa nay trử nên “lạ lùng, kỳ quái,” theo lời của tác giả. Cũng còn là may vì đừng quên rằng tác giả vẫn còn sổng dưới chế độ “kỳ quái” được mô tả rành rọt trong cuốn sách. Vì may mắn nào mà Đèn Cù II vẫn còn được tiếp tục xuất hiện và hy vọng tới lay bạn đọc?

Không, không có gì thay đổi cả. vẫn giọng văn ấy, vẫn “lội kể tếu táo” ấy, và với những muộn phiền ấy trong cuộc sống của chế độ mà tác giả cố gắng luồn lách qua ngày… Những điều trông thây mà đau đớn lòng… Trải dài trên mấy trăm trang giấy, đọc mệt luôn!

Cuốn II tiếp tục tiết lộ nhiều chuyện ly kỳ… xin trưng dẫn vài chuyện:

Chuyện ông Hồ, đúng ra chuyện giả cụ Hồ. Ở nước nào, cộng sản hay không cộng sản, lãnh tụ nào cũng sự bị ám sát, chết không kịp ngáp. Thế nên mới có chuyện nhờ người giả dạng lúc xuất hiện trước công chúng, chuyện nghe cũng bình thường thôi và không có chi lạ. Vậy lạ ở đây là cái gì? Xin nghe tác giả thuật lại chuyện của người đã giả ông Hồ theo lời kể của Xương.

“Chuyện của Xương nói chung rẩt khác người. Rất bông phèng”

“Có lần anh hỏi tôi năm 1946, lúc còn là thiếu niên tiền phong… có ra ga Hàng Cỏ đón ông Bác đi tàu thủy ở Pháp về Hải Phòng rồi lên Hà Nội bằng xe lửa. À, có đón hả?

“Xương cười nói tiếp: Thế thì cậu hoan hô với vẫy hão rồi. Hôm ấy ở xe lửa xuống, cụ lên dự cuộc đón tiếp công khai xong là có người dắt đi, bịt râu, đi tắt trong sân ga đến chỗ thằng Qua, thằng này sau là Cục trưởng Cục trại giam, chờ sẵn lái đưa cụ đi.

“Sợ phản động nó xơi mà. Còn Bác trên xe chính thức diễu phố là một cậu lâu ngày tớ quên tên nó mất rồi, thằng này giống ông cụ kinh khủng, nó đeo râu giả làm ông cụ, nhòm ra vẫy đồng bào. phản động phơ thì thằng này hứng…

“Đến Cải cách ruộng đất, tay hình nhân này bị đấu tố là địa chủ phản động gian ác, suýt ngỏm. Nó khóc: Tôi từng đóng thay Bác Hồ để phản động có bắn thì tôi chết thay bác, thế nhưng phản động không bắn mà nay Đảng lại bắn tôi, ôi bác Hồ ơi, hu hu…”

Chuyện thứ hai liên quan đến cuộc sống của công nông trong cái “thiên đường cộng sản” đó. Ly kỳ lắm vì rằng lương của họ chỉ đủ sõng 10 ngày… mà vẫn sống. Lương chỉ đủ sống 10 ngảy, người nói câu đó không phải là “một tên phản động, tàn dư Mỹ ngụy…” mà là Trường Chinh, Tổng bí thư đảng.

Trần Đĩnh viết:

“Tái xuất giang hồ, Trường Chinh có một câu quá hay: Lương của công nhân viên chức chỉ đủ để sống trong mười ngày.

“Hoàng Ước, thư ký của Trường Chinh bảo tôi là một hôm Trường Chinh nói với mấy người giúp việc rằng ta trả cho người lao động đồng lương bóc lột. Hoàng Ước bèn nói lương chúng tôi chỉ đủ sống mười ngày. Trường Chinh cau mày khó tin - bóc lột thì có nhưng sao lại có thể ác nghiệt hơn cả đế quốc đến thế?

“Hôm sau (Trường Chinh) bảo Hoàng Ước: Tôi đã hỏi nhà tôi, nhà tôi nói không có chế độ cung cấp đặc biệt thì lương ông cũng chỉ đủ cho nhà này ăn mười ngày.

“Sau đó Trường Chinh đến nhà máy thuốc lá Thăng Long nói: Phải cứu giai cẩp công nhân!

“Hay thật! Ở một nước do giai cấp công nhân lãnh đạo mà đảng phải cứu giai cẩp công nhân ra khỏi đòng lương bóc lột? Tôi thấy ở đó một khẩu lệnh hành động. Trường Chinh rất giỏi đề khẩu lệnh. Nhưng ông không nói cứu công nhân khỏi tay ai? Và thằng khốn nào nó bóc lột công nhân?

“Song dân biết rất rõ cái Cơ chế gà què mổ lẫn nhau nó cho phép bộ máy với lương sống mười ngày vẫn cù cưa được cả tháng, tất nhiên ở mức khốn nạn…”

Thế là xong, hết thắc mắc. Nói chung cho cả nước. Gia đình Trần Đĩnh còn gặp khó khăn hơn với nạn đánh Hoa Kiều sau khi đương sự bị đuổi. Tại sao? Bà Trần Đĩnh là người Hoa.

“Tôi bị đuổi việc so với cái họa của Hồng Linh vợ tôi, còn sướng hơn nhiều. Một sáng, phó phòng tổ chức Nhà hát giao hưởng - hợp xướng - Nhạc vũ kịch Việt Nam gọi Linh đến bảo:

“Chị phải đi khỏi Việt Nam. Và đi một mình, vì Trần Đĩnh không được phép đi đâu cả, còn con gái chị là người Việt Nam nên phải ở lại. Chị không đi, mai kia phòng tuyến Bắc Giang vỡ là sẽ tập trung các người Hoa như chị vào một khu vực xa lắm, khổ ra”.

Tại sao Trần Đĩnh tiếc nuối chế độ? Bị cho nghỉ việc, không lương, vợ bị trục xuất”. Trong biên bản khai cung năm 1968, tôi (tác giả) viết:

“Chân lý Mác Lê nay như một vòm pha lê vỡ vụn, mỗi anh nhận một mãnh và bảo đó là chân lý chung.

“Tôi nhìn đảng như một quái vật hai đầu. Một đầu của cô gái xinh đẹp là cuộc Tổng khỏi nghĩa và một đầu nghiệt ngã dữ dằn là đảng hiện nay. Có khi muốn đẩy cái đầu dữ đi thì đầu cô gái mà tôi mê lại khuyên ráng chịu”.

Một chế độ công an trị đang vây bủa. Một lưới trời (thiên võng) đang chụp trên đầu cả nước, chỉ có internet, họa hoằn lắm, mới qua lọt.

Vẫn từng đó người trong từng đó chức vụ, của đảng, của chính phủ, của quốc hội, của đoàn… nối tiếp nhau… Voi giây ối a, ngựa giấy ơi tít mù nó chạy vòng quanh…

Nhà xuất bản Người Việt

NGHI LỄ MỘT LỜI MỞ SÁCH

Viết này vất vả. Lười là rõ. Cứ mượn “nguồn im ấy cổ nhân” của Nguyễn Trãi mà lần khân. Nhưng còn có giằng nhau giữa nhận thức và hư vô.

Nhận thức thôi thúc viết. Tuy nó biến đổi không ngừng. Một quá trình tự phủ định, tự mở mắt thấy mình đã mù lòa. Phủ định cái bùa mê đã dắt díu mình bội phản lại thiên chất của mình. Viết ra sự thoát bỏ nhọc nhằn ấy đòi ngay thẳng. Dĩ nhiên là không dễ.

Còn hư vô. Từ nhiều năm nay trong tôi hư vô ngày một mở rộng. Nhiều đêm không ngủ, ngoái nhìn lại sau lưng chẳng thấy gì. Không người, không việc, không ý, không cảm. Một thung lũng sương vần vũ, một màn u linh bạc xoá. Thò tay khoắng vợt: rách rưới mấy vạt sương mù… Giật mình chứng kiến trạng thái hơi khói của đòi mình. Ngỡ có ai đã bắt tôi cày cuốc lên cuộc sống mình rồi nộp hết tô đời cho hắn: trỏng trơ cái thân vô dụng.

Và làm hại.

Tôi đã viết vài hồi ký “cách mạng” quá được hoan nghênh. Vài câu thơ đến nay tôi vẫn hài lòng. “Con người ném gương lên treo giữa các vì sao, Ngửng đâu soi thấy mình đẹp quá…” (Vệ tinh đầu tiền lên trời, 1957). Đặc biệt quyển hồi ký về Côn Đảo đã đua tôi lên thành pháo hoa rực rỡ. Các đơn vị lính xuyên Trường Sơn vào Rờ, đêm thường nghe cán bộ văn nghệ đọc những trang hồi ký này. Đi quanh Hồ Gươm, tôi hay được chỉ trỏ hoặc chào hỏi.

Và rồi tôi ngượng khi được giới thiệu là tác giả. Cho tới một hôm tại nhà một giáo sư hiệu phó một đại học ở Sài Gòn, một số bạn giáo sư khen tôi viết hồi ký kia hay. Và lần đầu tiên trước chừng hai chục trí thức, nghệ sĩ, tôi nói đúng ra tôi chĩ là một anh bồi bút. Cũng là anh hèn giỏi viết chuyện người bị đàn áp còn chuyện tang thương của mình thì lờ đi. Dĩ nhiên lúc ấy quyến sách bạn đang đọc đây đã xong, song tôi không thể thổ lộ. Sau buổi liên hoan, ra bến xe bus vắng tanh chờ, tôi tình cờ nhìn thấy một vỏ côn trùng lột xác khẽ đung đưa ở trước mặt. Tôi hứng nó vào lòng bàn tay và chợt mừng lạ lùng, ngỡ như vừa nhận về tấm mặt nạ bản thân tôi vừa gỡ xuống. Tôi càng lột bỏ mặt nạ trên tôi thì tôi mới càng là tôi.

Giá như tôi được viết những trang dưới đây như đã viết trong nhật ký những dòng về cây, về lá, về ánh đèn, bóng nước quanh Hồ Gươm, về con công nhốt trong Nhà Kèn sáu cạnh ở ngang hông Bắc Bộ Phủ một tối chớm xuân bỗng rùng mình phóng tiếng kêu vào đêm gọi mái? ồ… ộ… ộ… Thèm khát như thanh sắt nhọn lao vút đi hừng hực trong mưa lạnh. Tôi chợt cay mắt. Ôi, người thày dạy cô đơn. Một chấm vàng bên má công loé thắp, điểm nạp đứa học trò tha thẩn.

Từ đấy ra ghế đá với bạn bè, tôi thường từ xa đã hướng tìm đốm lửa rừng, vương sót trên thân con công thăm thẳm một vùng khinh mạn khiến nhiều phen tôi chợn. Nếu các trang này chỉ viết cái đẹp của trời đất?

Người ta đã cất công xây dựng tôi nên một cái bị ăn mày. Phải chi li rằng chất liệu tạo nên bị là tôi. (Ra mới dai bền thế!) Còn nội dung của bị là các thứ người ta thả cửa quăng vào cho mà tôi ngụp lặn ở trong và cấm không được đê chúng hư hao suy suyển.

Hình như một đạo diễn điện ảnh tên tuổi đã nói: Cái gì bạn không thay đổi được thì ít ra bạn hãy lột tả mặt mũi nó.

Vâng, tôi xin cố. Coi như trẻ con mở bị đồ chơi bầy hàng. Song hàng người ta ném vào bị ăn mày khá nhiều nên bày ra hơi la liệt, có khi nhiều lần hàng đụng nhau, vi phạm yêu cầu mỹ học. Chỉ xin nhớ giúp cho rằng khi quãng rác vào bị tôi, người ta đâu có tính đến mỹ học hay các thứ học xa xỉ. Tồi thì lại muốn sòng phẳng. Ít ra cũng một đổi một nghìn, mong bày cho đủ.

Có một tục ngữ da đỏ: Ban thờ của người này là tha ma của người kia.

Vậy tha ma tôi là ban thờ của HỌ.

Cái nào đẹp? Tùy chỗ đứng của người nhìn. Thông thường ở tha ma ta mủi lòng thương cảm. Còn trước ban thờ không chắc ta đều muốn cúi đầu.

Trân Đĩnh

 

***

Đèn Cù (Tập 2)

Chương 49

Vào Sài Gòn sống, qua Q. móc nối, tôi được quen một ông bạn đặc biệt tinh quái, tinh quái ở con mắt biếm hoạ sâu sắc mọi sự liên quan đến cộng sản. Như nhòm thấy tổ chấy cộng. Cụ ví: cái tổ chấy ấy nó như xăng dễ cháy mà mắt mình lại như cái bật lửa hay cướp cò, chết thế. Rồi tự thú: Cái tính tôi nó nghịch, hay lỡm. Mà cộng thì lại nhị ngôn, cái thứ tạo lỡm nhạy nhất. Nhị ngôn quá chứ? Thống trị dân từ đầu đến chân, từ quá khứ - đó, tóm lý lịch ba đời con người ta nhét giọ! - đến bắt làm con - mà là con của Bác, mất trật tự quá ta - thế nhưng lại nói lấy dân làm gốc, làm chủ. Hứa thì trăm voi nhưng không được một tăm nước xáo! Bây giờ địa chủ đỏ lấy mất đất của nông dân chủ lực quân của cách mạng kia. À, còn, còn các ông anh ngoài biển cướp biển của ngư dân Việt Nam để gọi là phối hợp đồng tác chiến nữa. Hai gọng kìm cộng sản kẹp thế thì dân nào chịu nổi? Cụ ơi, đau quá mà bất lực thì sinh lỡm. Nên lỡm mang tính đảng phái rất rõ đấy nhá, nó thuộc về những người thấp cố bé họng - cộng sản không lỡm được đâu, chỉ thạo trần mỗi quy trình bất biến tự hương bái và bạt tai dân, đem chữ lãnh đạo toàn diện ra mà khui tới hồn cốt là thấy hai cái động tác xoắn xuýt hương bái và bạt tai này đó. Nói chứ, nếu Cộng sản tự lỡm được như tôi thì phúc tổ cho dân quá đi đấy!

Xin giới thiệu vội: Cụ là nạn nhân lớn của cuộc cải tạo công thương nghiệp trong Nam. Và thông gia với chị gái Q. Bởi lẽ cụ bạn tinh quái hay “bình loạn” - chữ của cụ - nên tôi đi bộ hàng chiều với cụ.

“Kiểu này ta có thể sưu thành sách như Vừa đi đường vừa kề chuyện của nhà văn nhất tập nhất tót vào lừng danh rồi biến: Trần Dân Tiên. Lấy tên ấy là tỏ ý đặt dân lên trên hết tất tần tận, gớm, hơn đế quốc thực dân chưa? Nhưng ông lại lòi đuôi ra khi cho đăng ký trước thế giới rằng dân Việt có một “Cha già dân tộc”, bất chấp vị Cha già đã nhận mình là Bác dân.

Lại gật gù: Kẻ độc quyền ăn nói thường như vậy đấy. Nào, hãy soi vào cái chiêu bài vỉ dân trước. Đây xem, dân thích tư hữu thì đảng vì dân ra sao? Thì đảng diệt luôn tư hữu! Dân thích yên ổn làm ăn thì đảng nội chiến, đánh Mỹ, đánh hàng xóm láng giềng…, dần muốn ăn nói đàng hoàng thì đảng bịt miệng. Mời xem Hiến pháp 1980 nói: “Chủ nghĩa Mác-Lê nin là hệ tư tưởng chì đạo sự phát triển cửa xã hội Việt Nam”. Thế rồi nghị quyết đại hội đảng nào cũng “làm cho toàn dân nắm được ý thức hệ Mác-Lê”. Muốn bụm miệng cười ghê quá à. Dân Đức, dân Nga đã cho hai ông tổ nội bị cả kim la này ra rìa mà Việt Cộng cứ xì xụp. Ý dân bản chất là phản động, tư hữu tới cùng mà, nên đảng mới phải nêu “ý đảng lòng dân”, công thức canh ty kiểu Mác-Lê. Đảng nhường cho dân cái lòng làm theo ý đảng. Để cho cái lòng thực hiện hợp đồng đúng phắp thì có vị trọng tài tên là chuyên chính! Lại có các thứ chẳng dính gì đến dân đến nước mà cũng bắt dân “tự hào” như “đã đánh lùi từng bước, đánh sập từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc” - xin lỗi, may mà chưa đánh sập chứ không thì moi đâu ra cái nạng vạn dặm của nó để mà mượn chống, tiến lên định hướng? Rồi thì “đã dựng nên Nhà nước công nông đầu tiên” - lại xin lỗi cụ chứ ở ta… éo có thằng nào khổ bằng hai thằng công nông nhá. Đấy, đi trên đường gặp cái xe nào mà cứ hãi khiếp vía lên thì chính Công Nông nó đó.

Khiếp vía cứ y như khi nghe Lê Duẩn nói ở Hội nghị Trung ương 25, khoá III, tháng 10 - 1976. “Nhất thiết phải xoá bỏ giai cấp bóc lột, xoá bỏ sản xuất cá thwe, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa… Đường lối đó là dường lối của giai cấp công nhân không ai được chống lại”. À, xem ai chống lại? Dạ, là thằng dân vẫn ôm giấc mộng tư hữu từ tổ tiên ông cha nó. Nhưng mộng nghìn đời của tổ tiên mà bằng được cái mộng công hữu ông Marx ốm suốt mấy chục năm ròng, ôm cùng với hệ thống nhọt mạch lươn làm cho đít ông ấy máu me, đau đớn khốn khổ ư? Rồi lại chỉ rước công nông trí lên. Mà trí thì cũng là mới được móc ra. Còn con người mới xã hội chủ nghĩa ông Hồ xây dựng là gì đây? Nghĩ mãi thì ra là ba cái hồn Do Thái Đức, Nga La Tư và Hán hộn tạp pí lù lên thay cho hồn Việt.

Nói một thôi có vẻ mệt, im được chưa tới ba phút cụ bạn đã lại: Này, nhân nói đến anh Hán, anh ta từng là trung tâm tập hợp bạo lực chống Mỹ, rồi là thày toàn diện của Việt Cộng thế nhưng lại thua trò một khoản tối quan trọng đấy.

- ?…

- Khoản dũng cảm yêu nước! Xem đây, bom hơi sức, súng đạn cho Việt Cộng uýnh đến cạn máu me nhưng sau sáu chục năm hơn rồi hắn có mó gì vào Đài Loan vẫn tách riêng ra của hắn đâu!

Tôi đứng đực một lúc với cái sự thật trời đánh này, như cụ bạn đã cho tôi nhòm thấy củ tỉ cộng sản. Ờ nhí, hắn lại chả thiết giải phóng!

Chiều nay, đi quá nhà thờ N. H. một lúc, cụ bạn thình lình dừng lại: Hôm nào ta nói ở cái xứ câm nhân tạo này dù trời sập đất lở thì rồi cũng chì im như cái… rắm xịt.

Im một lát rồi đá vào một cột xi măng bên đường:

- Trông cái cột này, cụ. Sứt mẻ, lở loét, lòi cuội với cọc thép ra. À, tượng đài lịch sử rồi cũng như thế đấy. Trần ai này cái bị vầy vò nhất, phá bậy nhất, vùi lấp nhất và được hương bái quỵ quỳ nhất chính là lịch sử! Kể ngay một thí dụ: ở Hàng Bún Hà Nội, có một bia kỷ niệm vụ quân Pháp giết nhân dân xóm này ngày 17 tháng 12 năm 1946. Bia cũ gạch vữa sơ sài có dòng chữ nhắc lại vụ sát hại. Dành cho dân thường thôi mà. Nhưng ở bia mới làm bằng hoa cương sang trọng thì khắc nối thêm hình búa liềm vào. Dành cho đảng ạ. Xí không còn sót thứ gì!

- Đầu chiến tranh với Pháp, lính Liên khu I có quá lắm ba cha cộng sản và mười chàng Việt Minh thế nhưng nay tại nhà lưu niệm ban chỉ huy trung đoàn người ta cũng bệ búa liềm lên. Xoá luôn danh phận cả nghìn người không cộng sản.

- Mà đâu ra búa liềm dạo đó? Ngày ấy chơi khăm Việt Cộng, sinh viên ủng hộ Việt Nam Quốc Dân Đảng, thì chính tôi chứ ai, đem treo cờ búa liềm lên đều bị bắt cơ mà. Vặn tôi nó giải tán rồi sao còn bệ nó ra? - “Tôi nhớ nó”. - “Nhớ hay xỏ lá phá hoại nó?” Ấy, cộng sản lại bắt đứa treo cờ búa liềm, vâng, bá láp thế đấy ạ. Bởi lúc ấy đã xảy ra một sự kiện kinh hoàng với cộng sản mà nay chả mấy ai biết, kể cả nhiều người lớn tuổi: ấy là đảng vừa ở trong bóng tối nhảy ra hưởng ánh sáng tự do và cầm quyền thiếu tám ngày đầy ba tháng thì ngày 11 tháng 11 năm 1945 đã phải “giải tán”, tự xoá số hộ tịch, giấu biến cờ quạt, chui lại vào bóng tối, vâng, biết dân ghét cộng tam vô, tay sai Đệ tam Quốc tế ạ. Ngày ấy chỉ thấy cờ Quốc Dân Đảng, cấm thấy búa liềm, giấu đi như thời thoái trào ấy mà. Ngày ấy cả khu vực Hàng Bún, cửa Bắc, cho tới chợ Đồng Xuân quành xuống Hàng Đào, Hàng Gai quay ngược trở lên, số lượng đảng viên cộng sản đếm chưa hết phần tư cái móng ngón tay út.

- Thế sao 1945-46 lại chưa dám nhận làm bố dân?

- Vì… mới nắm quyền.

- Cóc phải! Vì ngày… ấy… đa… đảng!

- … A, thảo nào ngày ấy ông Hồ mới nói “Hồ Chí Minh chết thì chết chứ không bán nước” ở ban công Nhà hát lớn! Đã có một bộ phận dân nghĩ như thế thật thì mới phải công khai phủ nhận trước dân và thế giới khả năng bán nước hay tư cách Việt gian chứ. Bữa ấy tôi đứng cách có bốn năm bước ở sau lưng ông Hồ, Cụ Huỳnh Thúc Kháng và Võ Nguyên Giáp. Trèo tường hông bên trái vào. Cùng Hải Rỗ Bát Đàn. Chính quyền mới mà. Chưa quen canh gác trật tự.

- Lúc ấy dân nghi ông Hồ bán nước không ít đâu. Nhưng nghe tuyên truyền, rất nhiều người vẫn ngây thơ tin rằng Hồ Chí Minh đã cho Pháp vào để đuổi Tàu Tưởng đi. Bịa, bịa. Pháp vào Đông Dương thay thế Trung Quốc là việc hai nước cùng phe Đồng Minh thương lượng với nhau, chả phải hỏi han gì ông Hồ. Ông Hồ không thích cũng phải chịu. Không chịu thì họ bứng ông đi luôn! Nên biết “Hoa quân nhập Việt” quân Tưởng vào còn là để “diệt cộng cầm Hồ”, diệt cộng bắt Hồ Chí Minh. Cho nên Cụ Hồ mới phải thề chứ, lúc ấy đảng kiềng dân thật. Không kiềng có mà dân a lê hấp đá đi cho Việt Quốc, Việt Cách lên. Chính quyền không một xu, hạt thóc, hỏi ai nuôi, ai che chở đây? Rồi Pháp trở lại, nguy cơ lớn quá! Vậy phải mọi cách lấy lòng dân. Phải thanh minh không bán nước! Phải giải tán đảng! Hương, một cháu gái đã giải thích: “Thời chú, đất nước còn gần”. Câu nói quá sâu sắc! Nghĩ chợt thấy ờ, đúng vậy, ngày ấy đất nước gần vì đảng cần dân đổ máu để giữ lấy cho đảng cái chỗ sau này đảng sẽ cầm quyền và thực hành món chuyên chính thẹo lệnh hai cha mũi lõ; còn nay đất nước ở đẩu đầu đâu ấy, của ai đó mất rồi, sờ mò mãi chẳng thấy. Phải nói hôm ấy nghe Hồ Chí Minh nói chết thì chết chứ không bán nước, tôi chạnh thương vì thấy ông ấy như đang thưa thốt với các đấng sinh thành là dân, tôi nghĩ khi đứa con kém mọn đã dám đưa hẳn hai ngả bán nước hay là chết ra để tự thanh minh thì khó có thể phản lại bố mẹ.

- Mẹo agit-prop - tuyên truyền kích động - của đại học Đông Phương. Vì nó mà dân ta rút đầu ra khỏi cái thòng lọng thực dân để rúc vào cái cổ dề chuyên chính và toàn dân thì chỉ ba năm sau đã quay ra làm con của Cha già chung. Vấn đề bây giờ là làm sao cho mặt nạ rụng. Mà việc này chả khó. Chính chúng ta là phù thuỷ úm ba la cho rụng mặt nạ. Hay mở nắp bô!

Tôi nhìn cụ bạn, thấy hơi quái dị.

- Ừ, cứ xếp hai ba hiện tượng cùng phạm trù vào cạnh nhau là tự nó nổ đoành ra một phát sự thật có sức làm kênh nắp bô đi cho tới khi bật ra hẳn.

Cười khà khà nhìn tôi: Nào, thử nhá, hãy mò vào chiến thắng 1975 của Việt Nam và thất bại ở Bức Tường Berlin năm 1989, hai cực trái nghịch của phe cộng. Ờ, thấy sao? Thấy phe cộng mới hơn ba chục năm đã bước vào thế bĩ, đánh lộn nhau, để thoát khỏi vai phó tướng được nguyên tắc tập trung dân chủ áp đặt, “gió Đông” đã cho nổi binh đao để chọi lại Bức Tường ô Nhục “gió Tây” dựng lên, để nện ngay chính Mỹ là kẻ Xô cộng đang muốn hoà hoãn. À, chúng mày ngồi vườn hoa bàn chuyện miễn chiến thì ông ị cho một bãi tại nhân tiền thối hoắc, ừ, ông sẽ làm cho máu chảy xương tan thật rồi khi Mỹ bắt đầu oải thì ông đòi phải bàn bạc tay đôi với ông. Lúc ấy, lắm người tin Mao, ngỡ cái khẩu lệnh Mao nêu ra - đánh Mỹ để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa, mà muốn đánh Mỹ thì phải đánh Liên Xô - là chính danh cách mạng hảo hán can tràng nên đã hăng hái nghe Mao nổ súng. Để tới năm 1972 Nixon gặp Mao thì Liên Xô và phe cộng chìm nghỉm. Mao thực tế đã góp sức cùng Mỹ hạ phe cộng, đúng không? À, quá đúng. Nhưng vết rạn nút, vâng, mới là vết rạn thôi xảy ra sớm nhất, xảy ra công khai trong phe cộng là ở đâu? Cứ xem Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vừa ra đời thì quạng ngay quả đấm đối ngoại phũ phàng đầu tiên vào đâu là rõ ngay tâp lự. Vâng, quạng vào chính Việt Nam. Đó, đòi Biển Đông và các quần đào Hoàng Sa, Trường Sa. Kỳ dị chưa, ơ hơ hơ! Nhưng còn chỗ này kỳ quái hơn nữa cơ: là cả phe cộng, nhất là Việt Cộng, đều coi Trung Cộng nhận vơ lãnh thổ Việt Nam là chính đáng, là chân lý, là phải nên không phản đối, còn Mỹ loã loà mới đích thị thằng xâm lược Việt Nam. Cái nhìn cộng sản kinh dị chưa?

- Bởi theo nó thì bốn phương vô sản đều là anh em… “vô tổ quốc” như thế!

- Rất hay! Hồi đánh Mỹ, Lê Duẩn nói chúng ta cần hiểu lự lực cánh sinh ở cả cái nghĩa chỉ để một mình Việt Nam đổ máu chứ Việt Nam phải có nghĩa vụ bảo vệ cho đại hậu phương yên bình. Lê Lai liều mình cửu chúa thế đấy!

- Đời ác ôn thật! Giá như 1960 Đặng Tiểu Bình hạ béng nó Mao đi để đại trị với cách nhìn “một quốc gia hai thế độ” thì Sài Gòn sẽ tồn tại vô tội vạ chẳng có Đông Dương loạn li.

Đến đây cụ bạn liếc tôi:

- Úm ba la thêm vào chỗ này nữa nha: cộng sản bảo làm cách mạng cần nhiệt tình, thôi được, cho qua, nhưng tôi hỏi thêm là vậy có cần tri thức hay không? Điên mới bảo rằng không, hầy. Lại hồi tới, nhạy bén thông tin có phải là một bộ phận quan trọng của trí tuệ cách mạng không? Nào, đây, ở Pắc Bó nhờ đám tình báo Mỹ OSS, Cụ Hồ đã kịp thời có thông tin về Nhật đầu hàng, tức là có tri thức để đề ra chủ trương mới. Thế nhưng, éo le thay, chỗ này khó ăn nói với dân đây, vâng, éo le đến nực cười chỗ này, chờ cho khởi nghĩa Hà Nội thành công đã ba ngày, long trồi lở đất cả lên rồi thì đầu não cách mạng mới ngã ngửa ra. Vì tình báo OSS Mỹ thôi ốp ở bên, chả còn ai thông luồng trí tuệ cho nữa! Vậy thì có thể suy ra là năm 1949 Việt Cộng không biết Chu Ân Lai tuyên bổ về lãnh thổ chủ quyền ở Biển Đông! Không biết điều này nghĩa là gì? Nghĩa là ở giữa Việt Nam và Trung Quốc đã bày ra trận mạc về chủ quyền lãnh thổ, mầm tai hoạ lâu bền nhưng Việt Cộng vẫn bình chân như vại! A, thưa cụ, đến đây lại bật ra câu hỏi tiếp theo: Vậy mù tịt thông tin hay yếu kém bản lĩnh chỉ đạo như thế mả cớ sao Việt Cộng lại cứ đòi độc quyền dắt dẫn dân tộc không chịu hợp tác chung sức với người khác ở trong nước? Tôi bổ sung một điều nữa cho thấy tri thức cách mạng của đảng hạn hẹp. Đó là về công tác tình báo, phe đã phân công cho ta chỉ làm tình báo nội địa còn tin tinh báo quốc tế thì hai ông anh bao sân, cho gì biết nấy. Còn lúc ở trên rừng bọn tôi không biết các chuyện tuyên bố với bản đồ chủ quyền lãnh thổ này thật.

- Có biết đấy. Ngô Mạnh chuyên gia cung cấp thông tin cho Cụ Hồ sau này vào Sài Gòn bảo tôi ngày ấy ông ấy đã có nhắc đến chuyện này, trong bản tin tham khảo đặc biệt in ronéo đưa Cụ Hồ.

Tôi chợt nhớ có lẽ tôi đã đọc tin “Trung cộng tuyên bố chủ quyền biển Đông” bên bếp lửa cho anh em báo Sự Thật. “La RPC procl. Mer de Ch. sa sveraineté”. Đúng cách Ngô Mạnh viết tắt.

- Nhưng hỏi sao Bắc Kinh chiếm Hoàng Sa, Trường Sa mà Mỹ và thế giới lại mặc kệ? Ừ, vì đó là chuyện nội bộ hai anh em nhà cộng, về ai cũng rứa cả, và đặc biệt nữa, Bắc Kinh lúc ấy so với Hà Nội lại hết sức niềm nở, thân thiện với phương Tây. Chính việc Việt Cộng cự tuyệt bắt tay với Mỹ năm 1977 đã tạo thuận lợi cho Bắc Kinh chiếm sáu đảo ở Trường Sa năm 1988! Anh tự trói anh vào cái cột trơ trụi giữa trời thì anh chết với lang sói thôi. Nếu Việt Cộng nhận đề nghị bình thường hoá của Tổng thống Carter thì e Bắc Kinh chưa chắc đã dám chiếm trắng trợn thế.

- Bởi hồi ấy đang cho rằng Mỹ sắp chết đến nơi, có điên mới đưa tay cho nó bíu? Với lại Liên Xô chưa sập nên cà cuống còn cay dược.

- Vâng, chính vì vị anh hùng này có cái gót A-sin (Gót chân Achilles là một câu ngạn ngữ rất nổi tiếng nói về điểm yếu của mỗi con người - BT) Vị cứ phải núp dưới bóng đa Liên Xô, bóng đề Trung Quốc thì mới thi thố được hai món võ độc là múa rá và đâm lê. Nên khi Liên Xô tan thì cà cuống lại vội cuống lên cà lấy Bắc Kinh.

- Thế là cầu xin cưu mang che chở hai lần ở chính cái kẻ tuyên bố công khai chiếm lãnh thổ Việt Nam! Mà lần cầu xin thứ hai là sau khi đã có dũng khí vạch mặt nó trên Hiến pháp là kẻ thù trực tiếp!

- Năm 1980 W. Burchett viết quyển sách theo đó, Phạm Văn Đồng đã giọng “rớm lệ” bảo tác giả rằng ở Hội nghị Genève, Trung Quốc “phản bội chúng tôi hết sức ti tiện”, “họ muốn bỏ ba nước Đông Dương vào túi họ” v.v… Nhưng hình như Đồng đã giấu các giọt lệ này đi với Cụ Hồ và Bộ chính trị?

- ?…

- Có giấu thì Bác với Bộ chính trị mới không sợ ông anh bỏ túi lần nữa để năm 1955 vẫn cho Võ Nguyên Giáp cùng tướng Vi Quốc Thanh vào tận vĩ tuyến 17 nghiên cửu phương án tác chiến mới ở miền Nam rồi sang Bắc Kinh để Bành Đức Hoài xét duyệt chứ.

- Vâng, tới 1956 - 1957, Bắc Kinh nẫng Hoàng Sa thì chính Đồng lại ráo lệ tuyên bố công nhận.

- Nhớ mang máng là hồi 1976 vẫn giải thích Trung Quốc vĩ đại không chỉ là đồng chí, mà còn là ông thày tin cẩn đã nhiệt tình giúp chúng ta để có được hôm nay, thế thì khi nào chúng ta muốn nhận Hoàng Sa về, Trung Quốc sẽ sẵn sàng trao lại.

- Ghê chưa, thế là cho hắn canh ti cổ phân mất rồi!

- Hay thật! Hai trang sử kề nhau mà đảo điên ngay tức khắc. Trang trước, tàu Việt nện làu Maddox Mỹ theo dõi tàu không số chở vũ khí Trung Cộng vào Nam đánh Mỹ và trang kế theo thì tàu Việt bị Hải giám Trung Cộng đuổi chạy re trên chính vùng biển của mình.

- Cuốn Đằng sau tấm màn tre - Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới ngoài châu Á (Bchind the Bamboo Curtain: China, Vietnam, and the World beyond Asia) do Priscilla Roberts biên tập, Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản 2006 vạch ra chính Lê Duẩn thừa nhận Duẩn biết Mao muốn chiếm Việt Nam nhưng vì lẽ Việt Nam nghèo mà sứ mệnh lịch sử là phải đánh Mỹ nên Duẩn cũng đành tra cả hai tay hai chân vào cái còng viện trợ của đàn anh.

- Nhiều người vẫn tưởng Duẩn chống Mao. Lầm to! Dịp Nghị quyết 9 cuối 1963 nhất biên đảo theo Mao, Duẩn đã tôn Mao lên làm “Lê-nin thời ba dòng thác cách mạng”. Viết thành sách hẳn hoi, Nhà xuất bản Sự Thật đó. Cụ Hồ ba đào vì chuyển biến này. Khi Mao ức hiếp quá Duẩn mới bỏ “Lê-nin thời ba dòng thác” mà quay về Lê-nin oa-la-din.

- Để rồi Nguyễn Văn Linh lại mờ màn hai: ôm lại Anh Hai, y như các nước Đông Nam Á cũng bằng mọi giá quyết diệt cộng nội địa bằng xong. Vùng này nổi rõ hai tấm gương ý hệ kiên cường xin tiết nhau.

Bỗng cụ bạn khẽ huých vào sườn tôi:

- Vấn đề bây giờ là xem có gỡ ra khỏi được hay không? Thằng con tôi ở Hà Nội mua căn hộ trong một chung cư ở quá ô Cầu Giấy. Đầu chung cư xây một bức tường mỹ thuật hoành tráng đề tiếng Anh Landlord (chủ đất - BT) với tên họ thiếp vàng rực rỡ tức người chủ sở hữu công ty bất động sản có toà chung cư này. Nó dần phát hiện ra lúc Cải cách ruộng đất người ta đã bắn hai địa chủ ở cái bãi trống gần chung cư. Cải cách trước thì bắn địa chủ cho thuê ruộng lấy tô, đổi mới nay thì tôn vinh địa chủ cho thuê nhà lấy lợi tức. Mà lúc nào cũng đúng, cũng vĩ đại, cũng đòi dân biết ơn. Đúng là ma quỷ! Thế là con không thể nhìn được bố ạ…, con tôi nó nói. Có lúc con định sẽ bảo ông landlord có tên thiếp vàng kia hãy sửa một lễ mà thưa với hai vị landlords bị công nông liên minh bắn trước kia: “Chúng tôi thấy vết máu oan khiên của các vị trên tấm biển chúng tôi nhưng chúng tôi tin máu của các vị sẽ tìm về được tới đúng bàn tay của kẻ từng gây hoạ cho các vị”. Vẹm (biến âm chữ VM tức Việt Minh - BT) là ai, thưa bố? Chính là chủ sới bạc còn đất nước chính là con thò lò bị họ búng cho quay tít, bõ ơi. Nay giết tư sản mai rước tư sản lên. Thê thảm. Hàng chục năm rồi cứ tháng 5 Bắc Kinh lại cấm đánh cá hẳn một quý ở biển Việt Nam thì đáp lại sao? Nịnh rất bợm! Trung Cộng họp đại hội đề ra ba chữ Tam Nông, Việt Cộng bệ luôn tam nông vào nghị quyết mình tức thì. Còn nữa. Giữa lúc dân Việt sôi lên phản đối cho Trung Quốc khai thác bốc-xít thì Bắc Kinh cử Lý Nguyên Triều, Trưởng ban tổ chức Đảng cộng sản Trung Quốc sang ký kết giúp đào tạo cán bộ cao cấp Việt Nam, hay nói cách khác mở lại trường đảng cao cấp hay khoa sản từng đỡ cho ra đời bao nhiêu lứa lãnh đạo của Việt Nam và Việt Cộng. Ký là bảo rằng em xin rúc đầu sâu hơn nữa vào hom Hoa hoá đây ạ! Vâng, chính thế. Năm 2008, Hồ Cẩm Đào và Lý Trường Xuân, trùm ý thức hệ và Lưu Văn Sơn phụ trách tuyên truyền đã mở phong trào “Hoa hoá, hiện đại hoá và toàn dân hoá chủ nghĩa Mác”, thế mà cứ ký đại! Cụ biết không? Mỗi lần ra Hà Nội, đến ngã tư Hàng Bài -Tràng Tiền rồi Hilton Opera tôi lại giơ tay chào kiểu nhà binh rồi nói: “Chủ nghĩa tư bản, cảm ơn mi thắng vẻ vang cộng sản. Thì đấy mi xâm lăng đất nước nó, làm biến đổi đất nước nó, lại còn cài cả mầm mống của mi vào đất nước nó nữa kia”. Tại sao chào lối nhà binh? À, là tôi thay mặt anh con cả tôi, đại tá công binh “nguỵ” chết ở trại cải tạo Lào Cai. Có điều cụ ơi, gần đây tôi nhìn nước ta sao cứ giống hệt một cỗ xe cút kít, xe một bánh hai cảng, tức xe bù-ệch (brouette tiếng Pháp - BT) ấy, do một người đẩy và lái, thùng xe chính là thằng dân nằm duỗi thẳng cẳng ra đó để chủ nó, một cha vai u thịt bắp võ biền nhưng mồm lem lém lý thuyết nó lèn chất đú các thứ rác rười vào mình. Xe lăn đi nghiêng ngửa, loạng choạng còn người đẩy, tức là chủ xe thì dần cứ lún chân xuống, không cất bước lên được nữa. Nó sa lầy. Sức nặng khiến nó sa lầy là gì? Là chính những bao tải tiền nó lột của dân rồi quàng lên cổ, quẩn quanh mình và nó ngã gục vì núi tiền bẩn đó. Cuối cùng cái thùng xe cút kít bật dựng đứng lên thành người.

Tôi thở dài. Con thò lò bị búng quay tít, lũ chủ sới bạc, cỗ xe cút kít bật dậy thành người.

Có lẽ thấy tôi âu sầu, cụ bạn khẽ huých tôi và nói tiếp:

- Có chuyện này để dành giờ mới nói… Sáng nay tôi có việc đi buýt lên Thị Nghè. Buýt (xe bus - BT) đỗ, tôi xuống hơi chúi người, mấy người xe ôm đứng đó đỡ tôi. Tôi cảm ơn rồi chả hiểu sao lại phét lác: “Mình còn khá lắm. Sĩ quan Dù ngày xưa mà lại”. Cụ biết sao không? Mấy người tự nhiên hớn hở, tiến sát đến trước mặt, cười toác, như gặp người nhà vắng bóng lâu. “Good!” - một anh nói. Một anh nắm tay: “Bố mới bển về à? Bố đi đâu con xin chở đãi bố một cuốc”. Một anh giơ ngón lay cái lên: “Dư Quốc Đống! Bển (Mỹ) về thì bố lại được lĩnh lương thôi!”. Thì ra trong lòng người ta vẫn cứ sống động nguyên vẹn cả một thời óng ánh nào. Tôi rất cảm động. Nghĩ mãi mới nhớ ra Dư Quốc Đống là tư lệnh sư đoàn Dù thiện chiến của Quân lực Việt Nam Cộng Hoà.

Im lặng rồi nói tiếp: Này, sau đó tôi tự hỏi sao những người kia, những người đang sống rất cực nhọc kia lại trung thành với một chế độ đã sụp đổ, cái có thể coi như đã phản bội họ đau đớn như thế. Trong khi những người từng đánh đổ Chế độ Cộng hoà Sài Gòn thì nay đầy bất bình mà chửi thầm cái hệ thống rút cục đem lại cho họ phẫn uất hay vô cảm. Chẳng phải Trần Độ đã ân hận đánh đổ một chế độ mà té ra nó lại tốt hơn cái chế độ ông ấy tiếp tay xây dựng lên đấy ư?

Đảo chiều được là nhờ dân đã thấy Việt Cộng chỉ là đứa em cúc cung phục vụ Trung Cộng. Nội dung phục vụ ông anh có một phân thế này: vâng, làm miu em giấu hộ cứt cho mèo anh. Đúng, một thời gian dằng dặc hắn ỉa đầy ra ở Hoàng Sa, Trường Sa mà dân ta có thấy qua một tẹo mùi gì đâu. Vâng, đảng vùi cứt mèo anh kỹ lắm. Trọng Lú còn bảo Biển Đông là bình yên vô sự.

Tôi tặc tặc lưỡi. Giấu hộ cứt cho mèo anh, ôi, lão này kinh thật. Đúng, báo chí toàn chửi Mỹ mà chả dám ho he một lời về Bắc Kinh! Nhờ báo Nhân Dân, Trung Cộng hiện ra trong sáng, mẫu mực, ngược lại với Mỹ xấu xa, mưu đồ.

Thì cụ bạn đã lại nói: Kể lại các bãi vùi từ thời Cự Hồ nha. Ở đây, có lên án Chu Ân Lai đem Việt Nam hối lộ cho Pháp ở Genève không? Có lên án Cách mạng Văn hoá không? Có lên án Bát Nhất bắn giết ở sáu tỉnh biên giới Bắc không? Tạm kể vậy. Thêm một tí hố vùi hộ mèo anh bĩnh ở bên ngoài. Khối đấy. Nepal có hai Đảng cộng sản Nepal ML và Đảng cộng sản thống nhất Nepal M, nhưng đưa tin về họ, báo Nhân Dân chỉ chú thích mỗi ML là Mác-Lê còn M kia thì lờ. Sao thế? Dạ, M là Mao-ít nên phải giấu kẻo bị ông anh cho là móc máy. Hay sau bạo loạn Tân Cương, Trung Quốc cách chức bí thư Thành uỷ Urumqi, báo Nhân Dân đưa đầu đề là thay, chữ cách chức chỉ hé ra tí tẹo ở trong bài. Với dân Việt mà cũng tinh tế hộ cho một tí tẹo như thế nhỉ?

Mưa dầm thấm lâu, dần người dân đã nhận ra cái điều ghê gớm sau: Viên đạn Bát Nhất làm đổ máu Việt ở Hoàng Sa, ở biên giới Bắc rồi tây nam chính là thằng anh cùng cha cùng mẹ với thằng em nó hiện đang nằm ở trong nòng súng Việt Cộng.

Đàn áp dân phản đối Trung Cộng cưỡng đoạt lãnh thổ, Đảng ngỡ đã giam giữ và khống chế được cơn lũ yêu nước của dân. Nhưng hậu quả lại hoá ra là tức nước vỡ đập. Nhưng ai hay qua đó, ít nhất cho tới năm 2010 này, dân bắt đầu nhận ra Trung Cộng xúc phạm đến lợi ích Việt Nam, Việt Cộng vẫn lặng lẽ đồng âm tín. Xem đây, ở Hoàng Sa, Trường Sa, một bên huỷ hoại thể xác Việt, một bên chôn vùi tinh anh Việt vào im lặng. Trong cuộc biểu tình chống Trang Quốc ở Hà Nội hồi tháng 6, dân đã giương cao tên các quân nhân Sài Gòn hy sinh năm 1974 ở Hoàng Sa và gọi là liệt sĩ, anh hùng, đón nhận vào lòng mình người lính Sài Gòn! Một hạm trưởng Sài Gòn hy sinh lại tên là Nguỵ Văn Thà! Vâng, Thà Như Nguỵ. Thà như nguỵ dám đánh kẻ xâm lược. Giương ảnh nêu tên các “chiến sĩ Cộng Hoà” lên chính là người Bắc u-mê-theo-cộng hắt đầu chuộc lỗi lầm từng u mê thù ghét, bắn giết những tâm lòng yêu-nước-phủ-nhận-cộng. Bắt đầu nhận thấy xưa đi giết anh chị em Cộng Hoà không có hề vì “độc lập dân tộc” mà là để mở rộng bờ cõi cho Trung Cộng, Xô Cộng, để lấy đất cho cái chủ nghĩa được coi làm báu vật “bảo đảm cho độc lập dân tộc”. Bản thân tôi một đời bốn lần chống, chống Pháp, chống Mỹ, chống Tàu rồi chống Cộng. Chống cộng ngay từ lúc nó ló mặt thì không chừng đỡ phải chống ba thằng kia!

- Này, như điềm báo trước ấy nhỉ. Sau Thà Như Nguỵ thì đến Đoàn Văn Vươn. Vươn thành Đoàn thành hàng ngũ rồi kìa. Tôi vẫn tin một vĩ nhân có tài biến đổi có tên Đại Lưu Manh… hay thằng Thời Đại.

- Đại gì, đại… đại nào? Cái gì?

Tôi tủm tìm cười khất mai nói, biết lão này đêm nay khó ngủ. Mai tôi sẽ bảo lão cái ANH trong câu “bao giờ em bén cái duyên anh” ở bài hát Đèn Cù kia chính là thằng Đại Lưu Manh hay thằng Thời Đại, hắn sẽ lôi cổ mọi kẻ cầm quyền ngang bướng với nó mà bắt đổ lướt đi chẳng khác nào cỏ rác như Phan chu Trinh nói.

***

Đêm đó, tôi đọc tờ giấy to cụ bạn đưa hồi chiều. Một ngày tin của Mạng Hữu nghị Hoàn Cầu. Phải nói không thể ngờ.

Chúng ta phải hành động thôi. Cái đồ Việt Nam coi hễ ai có sữa thì là mẹ này. Hễ ai có sữa cho thì gọi là mẹ. Không mạnh tay thì có lỗi với những anh em đã hi sinh trong chiến tranh tự vệ.

Đã đến lúc hành động rồi, mạnh mẽ kêu gọi lập tức giành lại Nam Sa.

Đất nước không thể mất những hòn đảo này, đó là cả núi vàng lấp lánh đấy. Đi bảo vệ Nam Hải đi. Bọn ta đi bảo vệ thì Giao Chỉ sợ một phép không dám xâm nhập nữa.

Nếu Việt Nam còn sinh sự, dẹp gọn luôn, biến làm một tỉnh của Trung Quốc.

Tối nay đến sông Bắc Luân cho tụi nó một trận. Nếu cứ như thế này, Nam Sa hết hi vọng thu hồi.

Xin mời, năm 79 đã nếm mùi, bây giờ làm trò ai mà sợ ai? Đừng nghĩ rằng Mỹ sẽ giúp tụi mày, cho những con khỉ này biến khỏi trái đất.

Chả lẽ đất ta nhiều quá, khống cần Nam Sa nửa hả?

Hãy cho những con khỉ này biến khỏi trái đất đi.

Nhịn nhịn nhịn, nhịn hết nổi rồi, chả lẽ cỡ Việt Nam cũng hoa tay múa chân được, ta không động đến được Mỹ, nhưng đến Việt Nam cũng không đụng nổi ư?

Đừng nói quần đảo Nam Sa, cả Việt Nam cũng là lãnh thổ Trung Quốc, không nhớ là Từ Hy Thái Hậu, gọi Việt Nam là An Nam sao?

Muốn chết đây, đừng xem Trung Quốc nhịn là yếu đuối! Xem tụi mày được mấy nâ?

Loại sài lang mắt trắng dã, quên ai cho chúng mày cơm ăn, đạp bằng Việt Nam đi.

Ha ha…, đến lúc dạy cho Việt Nam một bài học rồi, luôn tiện cảnh cáo mấy nước tốt hỉn đang còn chiếm giữ đảo của Trung Quốc.

Việt Nam bé tí mà dám ngông cuồng như vậy. Đã đến lúc đánh rồi! Trẻ con không nghe lời thì phải đánh đòn thôi.

Bây giờ đảo của ta một thùng dầu, thì rồi sẽ trả ta một thùng máu. Đồ ngu muốn chết đấy!

Con mẹ nó, nước tiểu nhân, trại tập trung, Việt Nam đây. (Ma đích, tiểu nhân quốc, tập trung doanh, Việt Nam).

Khuất phục Việt Nam thì Nam Sa yên ổn. Khuất phục Việt Nam chỉ bằng thép và máu, không còn cách nào khác.

Ngay đến ranh con (Việt Nam) cũng dám ăn hiếp chúng ta, hãy nhiệt liệt kêu gọi đánh đuổi kẻ xâm lược Việt Nam, bảo vệ Nam Sa của chúng ta.

Bài học chúng ta dạy cho “Việt bá” - kẻ vong ơn bội nghĩa 30 năm trước vẫn còn trước mắt. Hôm nay - 30 năm sau - tiểu Việt bá lại đang chiếm đóng mấy chục hòn đảo và hát vang tuyên bố chủ quyền, làm sao có thể nhẫn nhịn được! Đường đường một nước Trung Hoa, trường thành gang thép lẽ nào không giữ được vùng biển bao la của đất nước?

Việt Nam chẳng có chút tín nghĩa nào. Đừng tin Việt Nam.

Nếu Việt Nam xâm phạm Nam Sa, Trung Quốc xuất quân chiếm Hà Nội!

Quân đội chúng ta đâu???? Nên thanh toán đi thôi! Bọn đồ chó Việt Nam.

Xin thử xem xưa nay trên thế giới đã có ai khinh miệt dân Việt chúng ta bằng mười sáu chữ vàng chưa?

Anh ôm giấc mộng vĩ đại giải phóng loài người mà anh không giải phóng nổi anh ra khỏi cái danh hiệu Trung Quốc Bọn đồ chó Việt Naml Anh nói quý độc lập tự do mà thin thít nghe những câu chửi sặc giọng côn đò như thể sao?

Cái đồ Việt Nam coi hễ ai có sữa thì là mẹ này… Hễ ai có sữa cho thì gọi là mẹ. Đau thật Có cái đút vào là miệng xưng con hết. Ôi, chân dung trung thực con cháu ông Anh tặng.

Quãng những năm 1987-89, Văn học Xồ viết đăng truyện ngắn Cây tre của một nhà văn hình như người Litva Liên Xô kể chuyện ông nhặt một mẩu tre cụt vì bom Mỹ ở tận Nghệ Tĩnh quê Bác đem về nước. Rồi nhà văn kinh hoàng chứng kiến sức sinh sôi hãi hùng của tre. Tre ăn trụi hết - tủ lạnh, ti vi, thảm len, thảm hoá chất, ô tô… - và cứ thế nó man rợ bành trướng thành rừng khắp phố nọ phường kia, có cơ tre hoá hết mất thành quả Cách mạng Tháng Mười. Công binh phá mìn, xe tăng ủi… Vô ích. Nhà văn nghĩ khéo phải giở vũ khí nguyên tử ra “chinh phục” tre ma quái này.

Quốc tế vô sản mà cứ ăn bám mãi thì người ta cũng bỉ.

Học Câu Tiễn, đề nghị từ nay ở nhà các vị uỷ viên trung ương nên ngày đêm mở đĩa nhạc ngâm đoạn thơ Hoa trên đá của Chế Lan Viên.

Sinh thời nào chúng bịp theo thời ấy, Thời hố thật chứng bày trò hổ giấy. Giả cách mạng, giả anh em, giả mặt trời hòng. Thối hoắc gió Tây rồi còn giở giọng gió Đông, Quỳ gối cho đế quốc cưỡi từ lâu rồi còn đóng kịch, Pháo Bắc Kinh thay vào bom Mỹ. Hôm qua bạn bè nay thành đao phủ, vẫn hát Quốc tế ca và dương cờ đỏ. Lũ “thái thú” tân trang bằng một ngọn cờ hồng”.

***

Chung quy có lẽ do thiếu một thứ mà sáng 13 tháng 6 năm 1990, tôi đã nói với Lê Kim Phùng, cục trưởng A25 và sáu bảy quan chức an ninh: trí tuệ. Thiếu trí tuệ nên mới cứ đem miếng cao 16 chữ vàng dán đắp lên các vết thương tong tỏng máu trên mình đất nước rồi nguyện dù gì xảy ra ở Biển Đông (ngụ ý mất cả Biển Đông) cũng không làm phai được tình hai anh em cộng sản. Thiếu trí tuệ nên mới dám khinh dân, lừa dân, đàn áp dân. Mới không biết điều sơ đẳng này: Nước có thể chở thuyền, lật thuyền. Và thuyền thì hiện đang tránh dữ.

Chắc Nguyễn Chí Hùng, cựu trưởng phòng chính trị sở công an Hà Nội dự hôm đó vẫn nhớ. (Cuối 2011, con rể Hoàng Minh Chính gặp Hùng ở Hà Nội đã bấm điện thoại để Hùng chào thăm tôi). Chắc nhớ cả cái ý tôi nói năm 1991-92 với anh ở nhà tôi rằng Đảng nên chọn Tổng bí thư ở trong toàn dân, nếu chưa là đảng viên mà dân bàu thì lúc ấy cho anh ta vào đảng cũng có sao? Thời bí mật dân dành bát cháo củ khoai cho là cứu cái mạng sống cá nhân của đảng viên. Nay dân bàu người cầm quyền là cứu cái hồn đất nước.

 

 

 


Cái Đình - 2014